HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Monday 17 June 2013

NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO BANGADESH


CHƯƠNG XVIII

  NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
 PHẬT GIÁO BANGADESH


I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHẬT GIÁO BANGADESH

Trong một khoảng thời gian rất dài của lịch sử, đất nước Bangladesh ngày hôm nay đã từng là một phần của Ấn Độ và được biết đến như là Bengal. Cho nên lịch sử của đất nước Bangladesh hiện đại khá ngắn. Các biên giới của Bangladesh ngày nay được thành lập với sự phân vùng của Bengal và Ấn Độ vào năm 1947, khi khu vực này đã trở thành một phần của Đông Pakistan, một phần của quốc gia Pakistan mới được thành lập.
Sự khác biệt về chính trị và ngôn ngữ cùng với sự bỏ bê về kinh tế dẫn đến những phong trào chống lại miền Tây Pakistan diễn ra rộng rãi, dẫn đến cuộc chiến tranh giải phóng Bangladesh vào năm 1971 và thành lập nên quốc gia Bangladesh. Ngày nay, Bangladesh là một nước cộng hòa dân chủ vô thần.
Điều lạ lùng là, mặc dù Bangladesh là một đất nước có số lượng tín đồ Hồi giáo áp đảo, Phật giáo giữ một vai trò không nhỏ trong lịch sử và văn hóa của quốc gia. Xét trên toàn quốc, thì Phật giáo là tôn giáo lớn thứ ba, và ở một số vùng, chẳng hạn như ở Chittagong, Phật tử chiếm một con số khá ấn tượng, 12% dân số trong vùng.

Số lượng tín đồ Phật tử không phải là yếu tố khiến cho đạo Phật trở nên quan trọng ở Bangladesh, mà điều quan trọng chính là lịch sử của Phật giáo ở đấy. Khoảng cách từ Bồ Đề Đạo Tràng đến Bengal không xa và khu vực này đóng một vai trò rất lớn trong sự phát triển của Phật giáo. Các học giả Phật giáo ở Bangladesh cho rằng, Đức Phật thuyết giảng tại Majjhimadesh của vương quốc Ấn Độ, một vùng đất mở rộng đến thị trấn Kajangal, đó là thành phố của Mahasal ở Bangladesh ngày nay. Họ tin rằng Đức Phật đã đến Kajangal và thuyết giảng hai bài pháp cho tín đồ ở đấy. Tuy nhiên, không có bất kỳ một cứ liệu lịch sử nào chứng minh rằng Đức Phật đã đến một vùng nào đó của Bangladesh để thuyết giảng trong cuộc đời của Ngài.

Các học giả nghiên cứu gần đây đã tìm thấy một trụ đá của vua A Dục tại Damrai, gần Dhaka, và họ đang cố gắng tìm hiểu xem Phật giáo đã đến Bangladesh như thế nào. Hiện có một vài khám phá khác, như là hai bản khắc chữ được tìm thấy ở Sanchi ghi lại những món quà của hai người dân của Purnavardhan, từ đó suy đoán là Phật giáo có mặt ở Bangladesh trước kỷ nguyên đầu của Tây lịch.
Dưới thời của Hoàng đế A Dục (304-232 TCN), Phật giáo được phát triển vững vàng như là tôn giáo số một tại Bengal, và Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển mạnh trong khu vực cho đến thế kỷ thứ XII. Bengal trở thành thành lũy cuối cùng của Phật giáo trong khi Ấn Độ giáo và Hồi giáo đang dần thống trị Tiểu lục địa.

Bangladesh là một phần không thể tách rời của Vanga hoặc Bengal cổ. Dựa trên hồ sơ bằng văn bản Pāli, ngài Vangisa, một trong những đệ tử lớn nhất của Đức Phật đã được ca ngợi từ một phần của Tiểu lục địa này. Những bản khắc về ngài Long Thọ có niên đại từ thế kỷ thứ III cho thấy rằng Phật giáo đã được người dân thực hành ở Bangladesh dưới dạng những quy tắc của vua A Dục. Cái tên Vanga đã được đề cập đến nơi những bản khắc trong một số trường hợp.

Vào thế kỷ thứ V, nhà chiêm bái người Trung Quốc, ngài Pháp Hiển, đã đến thăm Tamralipti (phía Tây Bengal, Ấn Độ) và đã thấy 24 tu viện Phật giáo. Đến thế kỷ thứ VII, ngài Huyền Trang đã đến thăm các vùng khác nhau của Bengal. Tại Samatata (huyện Noakhali của Bangladesh hiện nay), ngài đã thấy có 30 ngôi tự viện với hơn 2.000 Tăng sĩ, và ở Karnasuvarna (Bắc Bengal) thì có 10 tu viện với 2.000 Tăng sĩ. Ngoài ra, tại Tamralipti, ngài thấy có 10 tu viện với 1.000 Tăng sĩ. Tại Pundravardhana (Mahastan, huyện Bogra trong hiện tại), ngài thấy có 20 ngôi tự viện với 3.000 Tăng sĩ. Những khai quật khảo cổ tại Mainamati, huyện Comilla đã phát hiện thấy tu viện Salvana, nơi lưu lại những tàn tích của tu viện lịch sử Kanakastupa, nơi ngài Huyền Trang đã từng đến thăm.

Những sự thật này cũng được chứng thực bởi những lời ghi nhận khác nhau và được ghi lại bởi các nhà chiêm bái Trung Quốc khi đến thăm Bengal trong những năm sau này. Một số tu viện đã trở thành trường đại học nổi tiếng thế giới như Taxila, Udantapuri và Vickramasila.

Từ năm 750 đến năm 1150, Phật giáo phát triển đến đỉnh cao trong lịch sử của Bangladesh dưới sự bảo trợ của các vị vua thuộc triều đại Pala, như vua Gopala, Dharmapala và Devapala. Họ là những Phật tử thuần thành và dưới sự bảo trợ của họ, những tu viện nổi tiếng thế giới như ngôi đại tự Somapura, tu viện Shalban, đại tự Paharpur, đại tự Vickrampuri, tu viện Pandit đã được xây dựng tại Bangladesh.

Từ năm 1150 đến năm 1760, Phật giáo dần biến mất khỏi Bangladesh. Sau sự suy thoái của các vị vua thuộc triều đại Pala, đội quân Ấn giáo đã đến thống trị Bengal và đàn áp Phật giáo. Những người Phật tử còn sống sót đã rút về khu vực Chittagong. Trong chưa đầy một thế kỷ sau, các triều đại Sena đã bị tràn ngập bởi dòng thủy triều của Hồi giáo.

Với sự thành lập quyền lực ở Bengal, những người Hồi giáo đã phá hủy nhiều tu viện. Họ đã sát hại rất nhiều tu sĩ Phật giáo và thực hiện việc cải đạo có hiệu lực. Thậm chí ngày nay, một số phòng cầu nguyện Hồi giáo ở Chittagong vẫn được gọi là Buddher Mokkan (nghĩa là ngôi nhà hay đền thờ Phật giáo). Đây được coi là ngôi chùa Phật giáo được thành lập theo các quy tắc của các vị vua triều đại Pala. Ngày nay, Phật giáo có khoảng 1.000.000 tín đồ ở Bangladesh.
Vào tháng 9 năm 1760, Quân đội Đông Ấn Anh đã thiết lập quyền lực của họ ở Bangladesh. Chính sách tự do tôn giáo của người Anh cho phép các Phật tử, mặc dù số lượng giảm nhiều, tự chấn hưng Phật giáo ở Bangladesh trên một nền tảng vững chắc.



Tuy nhiên, vào thời điểm đó, kinh điển Phật giáo không có sẵn ở Bangladesh. Ngay cả tu sĩ Phật giáo và tu viện cũng có số lượng rất ít. Phật tử đã chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và thực hiện nhiều nghi thức, nghi lễ khác nhau của Ấn Độ giáo thay vì thực hiện theo nghi thức Phật giáo.

Trong khi đó, vương quốc Chakma là một nhà nước phong kiến ​​dưới sự thống trị của chính phủ Anh và người trị vì nó là Hoàng hậu Kalindi (1830 - 1873). Bà đã mời ngài Sangharaj Saramedha Mahasthavir từ Arakan, Miến Điện đến Bangladesh. Năm 1864 ngài Sangharaj Saramedha đến Chittagong và dẫn theo một phái đoàn Tăng sĩ được đào tạo đầy đủ để chuẩn bị cho việc truyền giới pháp Tỳ-kheo cho những ai đã sẵn sàng.

Sau đó ngài trú tại tu viện Pahartali Mahamuni ở Chittagong. Trong thời gian diễn ra lễ hội Mahamuni Fair hàng năm, nhiều Phật tử tụ hội về và trong dịp lành này, ngài đã truyền trao giới pháp Tỳ-kheo cho bảy vị tu sĩ ở Chittagong tại Udaka-Ukkhepa.

Cũng trong thời gian này, Phật giáo Nguyên thủy đã được chính thức thành lập tại Bangladesh. Các vị vua cổ đại của Arakan đã tạo ra một tiền lệ là tôn vinh các vị Tăng nổi tiếng, những người đã phục vụ cho lợi ích của tôn giáo, với các tên gọi và danh hiệu thể hiện sự ưu việt của các vị ấy. Ngài Saramedha được chính phủ Anh vinh danh với một danh hiệu cao quý. Đây là lý do tại sao ngài đã được biết đến rộng rãi với danh xưng “Sangharaj” và những người cùng với ngài thành lập tổ chức Phật giáo Nguyên thủy được gọi là “Sangharaj Nikaya”.

Khi sự cai trị của thực dân Anh kết thúc vào năm 1947, Bangladesh đã được gọi là Đông Pakistan. Năm 1959, một hiệp hội Phật giáo có tên Parbatya Chattagram Bhikkhu Samiti (hay Chittagong Hill Tracts Bhikkhu Association) được thành lập dưới sự lãnh đạo của ngài Aggavansa Mahathero. Hiệp hội này đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo ở Chittagong. Nhờ có tổ chức này mà số lượng các tu sĩ và tu viện Phật giáo đã được tăng lên trong khu vực này. Hiện tại thì hiệp hội này vẫn còn phổ biến ở Chittagong và vẫn giữ vai trò tương tự. Sự hồi sinh của hình thức ẩn tu trong rừng cũng được diễn ra trong giai đoạn này.


Đến năm 1971, Đông Pakistan đã tách ra thành Bangladesh thông qua một cuộc chiến tranh đẫm máu. Năm 1972, một ngôi chùa Phật giáo có tên là Dharmarajik Bouddha Vihara đã được thành lập ở Dhaka, thủ đô của Bangladesh. Thêm vào đó, tu viện Shakyamuni Buddhist cũng được thành lập ở Dhaka. Hiện nay, có 4 ngôi chùa Phật giáo ở Dhaka.

Ngày nay, Bangladesh được thừa nhận là một quốc gia tôn trọng sự hài hòa giữa các tôn giáo, mặc dù một số vấn đề thỉnh thoảng được thêm vào lời xác nhận đó. Tuy nhiên, chính phủ cho rằng, Bangladesh có đủ lịch sử và truyền thống để làm cho nó thành một vùng đất của sự hài hòa và giao lưu văn hóa.
Ví dụ tốt nhất về sự hòa hợp tôn giáo và giao lưu văn hóa được tìm thấy nơi việc tổ chức lễ hội Pahela Baisakh (Ngày Năm mới Bangla). Đây là dịp thu hút mọi người từ tất cả các tầng lớp xã hội, và cũng là ngày mang màu sắc lễ hội nhiều hơn bất kỳ lễ hội tôn giáo của bất kỳ cộng đồng nào trên thế giới.


Hiện nay, người Hồi giáo đốt phá chùa Phật ở Bangadesh.. Hàng trăm người Hồi giáo giận dữ nổi lửa đốt chùa và nhà cửa của những người Phật giáo tại miền đông nam Bangladesh sáng sớm hôm nay, Chủ nhật, vì họ nói là một người Phật giáo đã đưa lên trang Facebook hình ảnh nhạo báng Hồi giáo.

Người Hồi giáo ở khu vực Cox’s Bazaar, gần biên giới với Miến Ðiện, nước có đa số dân theo Phật giáo, đã nổi lửa đốt ít nhất 5 ngôi chùa Phật giáo và hàng chục nhà cửa.

Những người gây bạo động nói rằng một người đàn ông Phật giáo địa phương đã đưa một bức hình nhạo báng kinh Quran của Hồi giáo lên mạng Internet.
Một ngôi chùa bị người Hồi giáo Bangladesh đốt cháy tại khu vực Cox’s Bazaar


II NGHỆ THUẬT KIẾN TRỨC PHẬT GIÁO BANGADESH.

Bangadesh trước kia thuộc Ấn Độ cho nên nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Bangadesh là nghê thuật Phật giáo Ấn Độ. Những nét quan trọng trọng nghê thuật Phật giáo Bangadesh là sự xuất hiện tượng Phật vào thế kỷ thứ 1 CN .Những tác phẩm nghệ thuật đầu tiên được xem là thuộc về Phật giáo xuất phát từ lĩnh vực kiến trúc. Đó là những Tháp-bà (zh. 塔婆, sa. stūpa, pi. thūpa), thường được gọi tắt là "tháp", ban đầu có cấu trúc vòm và là nơi chứa Xá-lợi (sa. śarīra) của Phật. Ở các tháp này, người ta cũng tìm thấy những minh họa nghệ thuật cổ nhất dưới dạng chạm trổ (relief sculpture). Tuy nhiên, các tác phẩm này không có những nội dung đặc thù Phật giáo – có nhiều cảnh được miêu tả rất có thể có nguồn trước Phật giáo, ví dụ như hình của một phụ nữ đang sầu muộn, lõa thể với búi tóc xõa, hoặc các loại La-sát, những thần linh đã có trong truyền thống Ấn Độ giáo. Nhiều hình chạm trổ mang những nét đặc thù Phật giáo xuất hiện trong thế kỉ thứ 2 TCN.


Mặc dù nghệ thuật Ấn Độ đã có truyền thống điêu khắc hình người trước đó rất lâu, nhưng Phật ban đầu không được trình bày dưới hình người, mà thông qua các hình ảnh ẩn dụ như hoa sen, cây bồ đề, bánh xe pháp thuật. Thường thì Phật và giáo lí của Phật được thể hiện bằng những biểu trưng khác nhau và chúng đã trở thành những thành phần chính trong nghệ thuật Phật giáo đến ngày nay.
  • Hoa Sen (liên hoa 蓮華, sa. padma, kamala, puṇḍarīka): vì không để nước và chất bẩn bám vào lá, là biểu tượng của sự trong sạch và Phật tính trong mỗi chúng sinh. Hoa sen dưới dạng mãn khai hoặc dạng bán khai cũng là biểu tượng của sự hạ sinh của thái tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm.
  • Bồ-đề thụ (zh. 菩提樹, sa. aśvattha, bodhiruma, bodhitaru, lat. ficus religiosa). Tương truyền Phật đắc đạo dưới cây này và vì vậy nó mang tên "bồ-đề", là cách phiên âm của từ "giác ngộ". Nhưng biểu tượng này cũng đã có nguồn từ những phong tục tín ngưỡng lực phồn thực vốn sẵn có trong xã hội Ấn Độ trước Phật giáo, được xem là "cây của sự sống". Thỉnh thoảng người ta cũng thấy cách trình bày một toà ngồi trống dưới cây bồ-đề, nhắc đến sự thành đạo của Phật.

  • Pháp luân (zh. 法輪, sa. dharmacakra) - bánh xe (cakra) pháp (dharma), tượng trưng cho Tứ thánh đếBát chính đạo. Nhưng Pháp luân cũng nhắc đến lần Phật thuyết pháp đầu tiên tại Lộc Dã uyển, được gọi là lần đầu tiên "quay bánh xe pháp" (zh. 轉法輪, sa. dharmacakrapravartana) và qua đó, phổ biến Phật pháp khắp nơi trên thế gian. Pháp luân vừa được thể hiện qua những hình điêu khắc nổi, vừa được chạm trổ trên đỉnh các cột trụ mà vua A-dục đã dựng trên khắp vương quốc của ông (xem thêm A-dục vương thạch khắc văn).

  • Sư tử (zh. 獅子, sa. siṃha), biểu tượng của sự cai trị và hoàng gia của vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni ("Trí giả trầm lặng của dòng Thích-ca"). Thời vua A-dục, người ta cũng gọi Phật là Thích-ca Sư tử (sa. śākyasiṃha), "Sư tử xuất thân từ dòng Thích-ca". Tương tự Pháp luân, sư tử cũng là một biểu tượng của Phật giáo được vua A-dục đặt trên những cột trụ của ông. Quốc huy Ấn Độ hiện nay là một cột trụ có hình sư tử xuất phát từ Sarnath.

 III. CÁC KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO BANGADESH

1. BUDHA DHATU JADI

Buddha Dhatu Jadi  còn gọi  là Chùa Vàng Bandarban ở gần thành phố Bagadesh , thị trấn Bandarban Bangladesh. Dhatu nghĩa là xá lợi của Phật . Đây là chùa  lớn nhất thuộc phái Nguyên Thủy, có tượng Phật lớn thứ hai ở Bangadesh.Chùa này do  Ven. U Paññya Jota Mahathero xây vào thế kỷ 21.


File:Buddha Dhatu Zadi01.jpg 

File:Golden temple Bandarban.jpg 

File:Oporajeo prani buddhist temple Bandarban.jpg 

2. SOMAPURA MAHAVIHARA

Somapura Mahavihara (Sanskrit; Bengali: সোমপুর মহাবিহার Shompur Môhabihar) ở Paharpur, Badalgachhi Upazila, quận Naogaon, Bangladesh là một ngôi chùa  Phật giáo tại đây và cũng là một thắng cảnh của đất nước Bangadesh., đưọc UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1985.
Một số tu viện ở xung quanh. Theo nguồn tin Tây Tạng, chùa có từ thời Pala của Bangadesh, có đại học Nalanda.

File:Paharpur 03.JPG

File:Central Sherine deccor-Paharpur.jpg
 File:Somapura Mahavihara, Bangladesh.jpg


 3. CHÙA  SHITA COAT BIHAR, NAWABGAN

Shita Coat Bihar là một chùa  phật giáo ở Nawabganj Upazilla  của quận  Dinajpur  ở Bangladesh.. Xây từ thế kỷ 7 hay 8 với 11 phòng mà đại điện ở phía nam.


4. HỒI GIÁO ĐỐT PHÁ CHÙA PHẬT GIÁO

Khoảng tháng 10-2012, hàng trăm hàng ngàn người Hồi giáo  ở đông nam Bangadesh nổi loạn đốt phá chùa chiền với lý do là trừng phạt  một Phật tử nào đó đưa hình phỉ báng Hồi giáo.

 
Hàng ngàn tín đồ Hồi giáo nổi loạn đốt chùa và nhà cửa của Phật tử
ở miền Đông Nam Bangladesh hôm chủ nhật, 30-9. Ảnh: AFP

 
 
Tại Bangadesh, Phật tử, chiếm 1% trong số 153 triệu người Bangladesh, sinh sống chủ yếu ở các huyện phía đông nam, gần biên giới Myanmar với phần đông là Phật tử. Căng thẳng giáo phái đã và đang được đẩy lên cao từ tháng sáu khi các cuộc xung đột nhuốm máu nổ ra giữa Phật tử và tín đồ Hồi giáo Rohingya ở tỉnh Rakhine, miền tây Myanmar.
 
 
 

Mặc dù trước đây Bangladesh đã từng xảy ra các cuộc xung đột nhuốm máu giữa tín đồ Hồi giáo và Ấn giáo, nhưng xung đột giáo phái liên quan đến các Phật tử là rất hiếm khi xảy ra. Trong những tuần gần đây, hàng chục ngàn tín đồ Hồi giáo đã tham gia các cuộc biểu tình trên khắp cả nước để phản đối bộ phim chống Hồi giáo được sản xuất tại Mỹ, nhạo báng nhà tiên tri Mohammed.
( Mời đọc nguyên văn anh ngữ: Rioters torch Buddhist temples, homes in Bangladesh - AFP)



 

 

 

 

No comments:

Post a Comment