HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Monday 17 June 2013

NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO INDONESIA

CHƯƠNG XIX
 NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC 

PHẬT GIÁO INDONESIA

 

  I. PHẬT GIÁO TẠI INDONESIA 

image

Phật giáo là tôn giáo cổ nhất thứ hai tại Indonesia, sau Ấn giáo. Trước khi hai tôn giáo này được truyền vào Indonesia, người ta tin rằng thiên nhiên có một sức mạnh phi thường. Người dân thờ cây và đá như những vật thiêng do tin rằng đây là nơi mà những đấng quyền năng trú ngụ.
Ấn giáo được truyền vào Indonesia vào khoảng thế kỷ thứ hai. Hai vương quốc lớn đầu tiên (Tarumanegara ở phía tây Java và Kutai ở phía tây Borneo) được xây dựng trên Ấn giáo. Phật giáo thâm nhập vào Indonesia một vài trăm năm sau đó. Phật giáo đạt tới đỉnh cao của nó khi đất nước này nằm dưới sự cai trị của triều đại Sriwijaya. Triều đại này đã từng biến Idonesia thành  một vương quốc Phật giáo lớn nhất Đông Nam Á vào khoảng từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 14.  Trong thời gian này, nhiều trường đại học và tu viện Phật giáo được xây dựng và các học giả nổi tiếng của Phật giáo như Dharmapala và Sakyakirti đã dạy tại đây.  Vương quốc lớn thứ hai theo Phật giáo là Mataram do bộ tộc Sailendra cai trị từ thế kỷ thứ 8 và 9 tại miền trung Java. Nhiều ngôi đền Phật giáo được xây và kinh điển được khắc trên các phiến đá trong thời kỳ này.

Một trong những ngôi đền xây dựng vào thời kỳ được nhiều người biết đến nhất là Borobudur, một trong bảy kỳ quan của thế giới. Borobudur thể hiện ba quan điểm về vũ trụ theo truyền thống Kim cương thừa của Ấn Độ. Đỉnh của kiến trúc là một cái tháp, thể hiện tánh khái niệm về tánh Không hay Sunnata. Hàng năm vào ngày rằm tháng năm, lễ Vesak ( gọi là Tri Suci Waisak trong tiếng Indo) được tổ chức tại Borobudur để  tưởng niệm ngày sinh, thành đạo và nhập Niết Bàn của Đức Phật.
Trong thời kỳ cai trị của vương quốc Majapahit từ thế kỷ thứ 13 đến thế kỷ 15, Phật giáo và Ấn giáo cùng tồn tại một cách hòa bình với nhau. Sau khi triều đại Majapahit sụp đổ, Hồi giáo được những thương nhân từ Gujarat, Ấn Độ đưa vào Indonesia và ảnh hưởng của Phật giáo bắt đầu suy giảm mạnh kể từ đó và chỉ còn tồn tại giới hạn trong các khu vực phía đông Java và Bali.

Sự hồi sinh của Phật giáo
Vào năm 1934, hòa thượng Narada Thera, một tu sĩ truyền giáo nổi tiếng từ Sri Lanka viếng thăm Indonesia lần đầu tiên. Viếng thăm Indonesia là một phần của chuyến đi để hoằng dương giáo pháp vào các nước Đông Nam Á của ngài. Buổi lễ trồng cây Bồ đề được tổ chức trước Borobudur vào ngày 10/03/1934 với sự chúc phúc của hòa thượng Narada Thera, một số nam cư sĩ được thọ giới để trở thành tu sĩ.
Vào khoảng năm 1955, Phật giáo bắt đầu quay trở lại Indonesia khi một tu sĩ tên Ashin Jinarakkhita khởi sự một chuyến đi  đến nhiều nơi khác nhau trên Indonesia để hoằng dương giáo pháp. Kể từ đó, truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy do các  các nhà sư bản địa được huấn luyện tại Thái Lan dẫn dắt đã bắt đầu hồi sinh trên đất nước này, mặc dù truyền thống Đại thừa vẫn còn để lại dấu ấn đậm nét.


Các sư theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy hành thiền và đọc kinh vào buổi sáng tại tu viện Dhammacakka tại Jakarta, Indonesia.
Phật giáo là một trong năm tôn giáo được chính phủ Indonesia công nhận. Bốn tôn giáo kia là Hồi giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành và Ấn giáo. Theo cuộc điều tra dân số thực hiện vào năm 1990, đại đa số dân Indonesia theo Hồi giáo (chiếm khoảng 87%). Khoảng 1,8 triệu (ít hơn 1% dân số) theo đạo Phật. Thống kê dân số Indonesia theo các tôn giáo khác nhau như sau:
Hồi giáo: 87%
Thiên chúa giáo: 10 %
Ấn giáo: 2%
Phật giáo: 1%
Các tỉnh có tỷ lệ phật tử tương đối cao là Jakarta, Riau, bắc Sumatra và tây Borneo. Đại đa số phật tử theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy. Hai tu viện Phật giáo lớn nhất tọa lạc tại bắc Jakarta ( Sunter) và tây Java (Pacet). Không may, vì những người theo đạo Khổng và đạo Lão không được Hiến pháp thừa nhận, những người theo hai tôn giáo này thường tự nhận họ là “phật tử”, vì vậy người ta tin rằng  số phật tử tại Indonesia còn ít hơn con số thống kê chính thức.

II. NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO ĐÔNG NAM Á

Nghệ thuật Phật giáo được coi là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau, đặc biệt trong các lĩnh vực: kiến trúc, điêu khắc và hội họa.

Tượng Phật gỗ Bình Hòa, Long An


Tượng Phật gỗ Bình Hòa, Long An
Nghệ thuật Phật giáo bắt nguồn từ tiểu lục địa Ấn Độ ngay sau khi Phật Thích-ca Mâu-ni viên tịch (khoảng 563- 483 TCN), đến nay đã trở thành một hệ thống các biểu tượng đa dạng và phức tạp. Đông Nam Á là một trong những khu vực có sự tiến hóa của biểu tượng nghệ thuật Phật giáo từ rất sớm, cũng như thể hiện được nhiều tinh hoa Phật pháp.

Tượng Avalokitesvara (Quan Thế âm Bồ tát)
Tại các quốc gia vùng Đông Nam Á, các đoàn sư đã đi hoằng dương Phật pháp và truyền bá những điển lệ mỹ học của họ từ rất sớm và đạt được những thành công nhất định. Từ những thế kỷ đầu tiên của Công nguyên, những tượng gỗ Phật đứng đã xuất hiện ở Nam Kỳ (Gò Óc Eo) và ở Phù Nam (Thủy Chân Lạp).
 
Tượng Avalokitesvara (Quan Thế âm Bồ tát)
 Các nhà truyền giáo đã xâm nhập vào vùng hạ lưu sông Irrawaddy và thung lũng Chao Phraya của sông Mê Nam, các quốc gia Phật giáo được tạo ra, như Dvaravati. Trong các quốc gia Phật giáo, các lâu đài nguy nga, các Stupa* và các tự viện được trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc, bị ảnh hưởng bởi các điển lệ của trường phái Gupta* và hậu Gupta. Tuy nhiên, những biểu tượng Phật lại giả định các đặc tính địa phương do ảnh hưởng của chủng loại sắc tộc địa phương và điển lệ thẩm mỹ của cư dân. Phần lớn dáng điệu của các biểu tượng đều bị cứng nhắc, các nguyên liệu dùng để chạm thường là đá, đôi khi là gạch.

Hình tượng Lokesvara (Quan Thế âm Bồ tát)
 Khu bờ đông của vùng Việt - Miên - Lào, Phật giáo có sự phát triển cùng với Ấn Độ. Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ 9, ở Vương quốc Champa và Đông Dương, các công trình mỹ thuật Phật giáo và tự viện mới xuất hiện. Nhưng, các tác phẩm và điêu khắc, phù điêu, không thuộc dòng Tiểu Thừa như ở vùng Hạ Miến Điện và Vương quốc Dvaravati, chúng thuộc thần diện của Đại thừa. Dáng đứng của các tượng: to khỏe, thể hiện đặc tính sắc tộc đậm nét (môi dày, râu đậm, lông mày giao nhau) - có thể do ảnh hưởng của nghệ thuật Phật giáo Java*. Cũng khoảng thời kỳ này, người Champa bắt đầu sản xuất các ảnh tượng bằng đồng, chủ yếu biểu thị Quan Thế Âm Bồ Tát Phật giáo đã vươn tới khá sớm ở Indonesia. Từ thế kỷ thứ 5, đã tồn tại các tượng đồng phong cách Ấn Độ tại bờ Tây của Bornéo. Phật giáo Đại thừa hoằng hóa nhanh chóng vào thế kỷ thứ 8, đặc biệt là ở Java với quần thể kiến trúc hoành tráng ở Borobudur, cùng với các hình tượng về Jinas (theo phong cách Gupta) với vô số thần linh trên phù điêu thuật sự*. Những tượng lớn hiếm xuất hiện, nhưng với kích thước tối ưu, ví dụ: tượng Phật ngồi ở Borobudur; tượng của Chando Mendut ở Java…chúng đều tạc từ đá. Người ta chỉ sử dụng đồng để tạc các tượng rất nhỏ. Sau thế kỷ thứ 9 thì nghệ thuật Phật giáo bị lấn lướt bởi nghệ thuật Ấn Giáo.

Nhưng ở Campuchia, sau một thời kỳ suy thoái, nghệ thuật Phật giáo hồi sinh, tiêu biểu là thời Jayavarman VII (1180-1291), đã bao phủ toàn bộ xứ sở bởi đền đài và hình tượng Phật giáo, đặc biệt là biểu tượng Lokesvara (Quan Thế Âm Bồ Tát, theo Miên ngữ), các tiểu thần, điệu múa nữ thần Apsara. Ở Miến Điện, nghệ thuật Phật giáo được biểu thị qua các bức tượng Phật khổng lồ đang ngồi hay nằm, các tường gạch tự viện tô màu sặc sỡ…do ảnh hưởng phong cách Belgan*. Khu vực Thái Lan, trường phái Dvaraviti đã bị “Xiêm hóa” (sự ảnh hưởng của đế quốc Khmer theo dòng Tiểu thừa), dáng đầu tượng Phật: đầu dài, mũi cong mỏ két, dáng điệu uyển chuyển…Nghệ thuật đúc đồng nở rộ. Cũng sau thời kỳ này, sự mềm mại của các biểu tượng lại trở nên khô cứng, nặng nề, phổ biến các biểu tượng chế tác từ đồng và gỗ. Đây cũng là thời điểm xuất hiện mẫu “Phật đi” và trang trí tượng Phật ở hai bên và các tầng của Stupa.

Một kiến trúc Stupa
Nghệ thuật Phật giáo với hệ thống biểu tượng phong phú đã có quá trình tiến hóa lâu dài trong lịch sử Phật giáo Đông Nam Á. Trong đợt trưng bày chuyên đề “Văn hóa Phật giáo Việt Nam” tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia tới đây (khai mạc 25/2/2013 và kéo dài đến tháng 8 năm 2013 tại 25 Tông Đản, Hoàn Kiếm, Hà Nội), chúng ta sẽ có dịp chiêm ngưỡng những biểu tượng Phật giáo còn tồn tại, cũng như sự tiến hóa của nghệ thuật Phật giáo ở Việt Nam./.


Chú thích:
1. Stupa: Tháp xá lợi - một dạng kiến trúc cổ của Phật giáo, tháp thường thu nhỏ dần cho tới trên đỉnh, bên trong chứa xá lợi của Phật, hoặc hài cốt sư trụ trì.
2. Gupta: Thời kỳ trị vị của vua Gupta ở Ấn Độ, là thời kỳ Phật giáo phát triển rực rỡ, khoảng những năm: 415-605 TL (khoảng thế kỷ thứ 5).
3. Java: Java và Sumatra là 2 trung tâm Phật giáo quan trọng ở Indonesia.
4. Phù điêu thuật sự - từ nguyên gốc “narrative bas-reliefs.

III. CÁC KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO TẠI INDONESIA

A. SUMATRA

1. MUARO JAMBI TEMPLE COMPOUNDS

Muaro Jambi (Indonesian: Candi Muaro Jambi)  là chùa Phật  tổng hợp, tọa lạc ở tỉnh Jambi , Sumatra, Indonesia.  Chùa xây vào triều đại  Melayu ,  26 km  về phía đông thành phố Jambi. Chùa xây từ từ thế kỷ 7 đến 13. Chùa có 8 ngôi và chiếm 12 km vuông, kéo dài 7,5 km  theo sông Batang Hari  Đây là một di tích lớn nhất ở Đông Nam Á
Triều đại  Melayu hiện diện từ  1025  khi vua Ấn Độ  triều đại Chola  tấn công và phá hủy thủ đô Sumatra.  Triều đậi này chấm dứt năm 1278  khi vương triều  Singhasari ở Java tấn công thành phố  và bắt toàn bộ hoàng gia. Phong cảnh này do người Đức khám phá  vào thế kỷ 19. Nay thì được xếp vào Di tich quốc gia.

File:Candi Gumpung Muarojambi.jpg


 

   

 2.MUARA TAKUS

Muara Takus (Indonesian: Candi Muara Takus)   là chùa  Phật tổng hợp ( tổng hợp là gồm nhiều thứ như tu viện, học viện, bệnh viện, cơ quan từ thiện, nuôi trẻ mồ côi...)  , thuộc triều đại  Srivijaya  Chùa  ở  Kampar Regency  tại tỉnh Riau, Sumatra, Indonesia.  Chùa tồn tại từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 12 sauTL. Đây là chùa lớn nhất Sumatra.

 

 

B. WEST JAVA
1. BATUJAYA
Batujaya là một thắng cảnh ở một làng thuộc Batujaya, Karawang  ở  tây Java, Indonesia.Nơi này rộng 5 km vuông gồm 30  kiến trúc. Cảnh trí này do trường Đại học  Indonesia  khám phá năm  1984. , Có nhiều ao hồ,  các quang cảnh đều xây bằng gạch trộn vôi và hồ gạo.  Có hai kiến trúc là chùa, trong đó có chùa  Jiwa , nay thì được tái thiết. Theo Dr Tony Djubiantono, giám đốc Khảo cổ Bandung Archeology Agency, Jiwa  thì chùa được xây vào thế kỷ 2.was built in the 2nd century.
Nhà nước Indonesian thì bỏ mặc, nhưng Ford   trợ cấp cho việc nghiên cứu và tái thiết khu Batujaya tổng hợp   .
 
 
 

 

 

C. CENTRAL JAVA

1. CHÙA BOROBUDUR ( Candi Borodubur) .


Indonesia có lẽ là một trong các quốc gia có nhiều đảo nhất nhì thế giới (khoảng 13,000 đảo) ngoài 5 hòn đảo chính là Kalimantan, Sumatra, Irian Jaya, Sulawesi và Java. Jogyakata là một thành phố không lớn lắm nằm trên đảo Java và cách thủ đô Jarkata của Indonesia khoảng hơn 400km đường chim bay về hướng Ðông Nam.

Borobudur Temple trên đồi. (Hình: ATNT Tours & Travel)

.

Nét điêu khắc trên đá diễn tả sự lắng nghe lời người lớn tuổi. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Như trong bức họa đồ miêu tả, có người cho Borobudur Temple có dáng dấp như là Mạn-đà-la, một biểu đồ linh thiêng của vũ trụ trong triết lý Phật giáo. Stupa (bảo tháp) lớn nhất tại trung tâm Borobudur như là quả núi vũ trụ lớn nhất so với tất cả các bảo tháp của Phật giáo trên thế giới. Kiến trúc Borobudur có thể tóm gọn lại thành 3 phần: phần tầng 1 diễn tả về đời sống con người. Trong đó các bức điêu khắc ở tầng này dường như chủ ý muốn nói đến cái nhân cái quả của kiếp này kiếp sau. Thường thì có ẩn ý răn dạy con người. Thí dụ những người trẻ không chịu lắng nghe kinh nghiệm từ người lớn tuổi thì mai sau/kiếp sau họ có thể đón nhận những điều bực bội, lận đận đến với họ.

Nét điêu khắc diễn tả sự lận đận ở kiếp sau vì không nghe lời. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Phần hai gồm các tầng từ tầng hai đến tầng bảy bao gồm những câu chuyện về Ðức Phật, từ những câu chuyện về đời sống của Thái tử Tất-Ðạt-a từ lúc sinh ra đến lúc đi tìm chân lý và giác ngộ dưới gốc Bồ Ðề, các câu chuyện các tiền kiếp xa xưa của Phật như mẩu chuyện tiền kiếp của Ngài là Voi và đã hy sinh thân xác của voi để cứu sống những người sắp chết đói. Mẩu chuyện con Sư tử, Nai, và Chim. Sư tử đói bụng vồ được nai thì mừng quá nhưng một chiếc răng Sư tử bị nhức nhối, đau quá nên không ăn thịt nai được. Chim (tiền kiếp của Phật) thấy thế bèn nói Sư tử há miệng và chim lấy chiếc răng đau ra. Sau đó chim chịu làm mồi cho Sư tử thay thế cho nai. Các bức họa điêu khắc miêu tả về các câu chuyện trên thật sống động cho người xem. Người ta ước lượng tổng số các bức điêu khắc có thể dài chừng 4km. Nếu bạn muốn xem từng bức điêu khắc (một bức khoảng 24cm), mỗi bức mất 1 giây đồng hồ thì bạn cần ít nhất 2 ngày thì mới xem hết được. Bạn có đủ can đảm không?


Nét điêu khắc diễn tả câu chuyện Chim, Sư tử và Nai. (Hình: ATNT Tours & Travel)

Hơn thế nữa, phần hai này có tất cả 432 tượng Phật được tạc quanh bốn chiều Ðông Tây Nam Bắc, tượng trưng cho Phật ở khắp nơi. Thực ra thì các tượng Phật đều mang một ý nghĩa khác nhau. Nếu bạn thích thú về nghiên cứu triết lý cũng như giáo lý Phật giáo thì Borobudur thật là nơi lý tưởng cho bạn vui chơi cùng sách vở. Nếu triết lý Phật giáo cho bạn nhiều đau đầu thì Borobudur cũng rất thoáng rộng, vĩ đại và rất đẹp để bạn có thể ngắm nhìn một tuyệt tác của người xưa để lại cho nhân loại ngày nay.
Tượng thần Shiva Ấn Ðộ Giáo cũng là một tiền kiếp Ðức Phật. (Hình: ATNT Tours & Travel)
Phần ba là phần trên cùng bao gồm các tầng 8 đến tầng 10 thì không còn là hình vuông nữa mà là hình tròn. Ðây là phần tinh túy thâm sâu nhất của Borobudur. Có 32 stupa trên vòng tròn thứ nhất, vòng tròn thứ hai có 24 stupa. Tất cả các stupa tầng 1, tầng 2 này gọi tên là Parinirwana và đều được đục lỗ trống chung quanh hình thoi. Riêng tầng 3 có 16 stupa nhưng lại được đục lỗ trống hình vuông và gọi tên là Nirwana. Bảo tháp stupa trên cùng, nằm ngay giữa trung tâm của là một bảo tháp theo mái vòm tròn lớn. Trên đầu mái vòm là một trụ vuông và trên đó là một trụ hình bát giác. Bỏ qua phần ý nghĩa của các stupa thì phải nói đây là phần kiến trúc rất đẹp.

Ba Stupas Parinirwana-Nirwana-Mahaparinirwana, biểu tượng vô tướng. (Hình: ATNT Tours & Travel)
Borobudur Temple được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ 9 nhưng Phật giáo chỉ ảnh hưởng ở đây khoảng hơn 1 thế kỷ thì ảnh hưởng Ấn Ðộ giáo trở lại. Sau đó Hindu lại phải nhường cho ảnh hưởng Hồi giáo chiếm trọn Borobudur cho đến bây giờ. Vì thế kiến trúc của Borobudur ít nhiều đều có ảnh hưởng từ ba tôn giáo trên.
Tôi đến thưởng ngoạn Borobudur dưới một cơn mưa tầm tã. Sáng nắng chiều mưa là chuyện bình thường vào Tháng Giêng tại đất nước Indonesia. Ngắm nhìn kiến trúc to lớn của Borobudur mà lòng thầm cám ơn ngọn núi lửa Merapi vì nhờ tro bụi của Merapi phủ kín nên Borobudur mới còn tồn tại cho đến khi Thomas Stamford Raffles, một người Anh đến phủi bụi cho temple ló mặt ra thế giới từ năm 1814. Chính phủ Indonesia và UNESCO đã hai lần trùng tu bức tranh Mandala bằng đá này, nhưng những trận động đất thường xảy ra tại đây liệu có phá hủy đi một tuyệt tác của nhân loại không?
Quang cảnh nhìn từ đỉnh Borobudur Temple. (Hình: ATNT Tours & Travel)
Jogyakata không phải chỉ có Borobudur Temple mà còn có Prambannan, ngôi đền thờ của Ấn Ðộ giáo cũng vĩ đại không kém. Tôi chợt nhớ đến câu chuyện thần Shiva của Ấn Ðộ giáo cũng là một tiền kiếp của Ðức Phật và cũng đồng thời nhớ đến mẩu chuyện Ðức Phật cũng là một tiền kiếp của Thần Vishnu bên ngôi đền Hindu tại New Dehli. Ai đúng ai sai! Tôi cho rằng Jogyakata cũng không thua kém gì Angkok Wat của Campuchia.


"“Borobudur” trong tiếng Indonesia có nghĩa là “Tháp Phật trên đồi cao". Toàn bộ tháp do 300 nghìn viên đá xếp thành, được xây dựng trên một mặt bằng hình vuông rộng 2 500 m², theo mô hình của một Mạn-đà-la, tức sơ đồ về khái niệm vũ trụ của Phật giáo Tây tạng. Đền cao 42 m, bao gồm 12 tầng to, nhỏ, vuông, tròn xem kẽ, kế tiếp nhau. Chiều dài mỗi mặt ở chân đền là 123 m. Móng tháp là một đài hình vuông có cạnh là 123m. Phía trên là 6 tầng hình vuông cắt góc mỗi cạnh lần lượt là 120, 89, 69, 61, 54, 58m, tượng trưng mặt đất mênh mông. Ba tầng còn lại hình tròn có đường kính lần lượt là 51, 38, 26m tượng trưng cho vũ trụ bao la hùng vĩ."

Năm 850 có thể xem là năm hoàn thành Borobudur. Nhưng vào khoảng đầu thế kỷ XIII, những người buôn bán Á rập đã đưa Hồi giáo vào Indonesia. Chỉ trong vòng hai trăm năm, cả quần đảo Indonesia gần như hoàn toàn bị Hồi giáo hoá. Borobodur trở nên hoang tàn.

Lúc hoàn thành Borobodur có 602 pho tượng Phật, nhưng một số đã bị mất cắp, ngày nay còn 504, một số bị lấy mất phần đầu.

 

 

 

 

 

"Nhìn từ trên xuống, Borobudur thể hiện hùng hồn cho quan niệm “trời tròn đất vuông” của Phật giáo về vũ trụ với cấu trúc 2 phần rõ rệt: 3 tầng tròn ở phía trên và 7 tầng vuông ở phía dưới. Những học giả Ấn Độ cho rằng, tòa tháp này được thiết kế theo thuyết Tam giới của Phật giáo: 2 tầng đáy là “dục giới”, 5 tầng giữa là “sắc giới”, 3 tầng trên là “vô sắc giới”.
Đối với các tín đồ Phật giáo dưới vương triều Sailendra, thì Borobudur là đại diện cho Phật giáo thực nghiệm. Họ có thể dễ dàng hình dung quá trình tu luyện của bản thân qua kiến trúc đền."

 
 
 

 


"Viếng Borobudur bắt đầu từ cổng phía Đông, đi theo chiều kim đồng hồ, mỗi tầng đều có bậc thang để trèo lên tầng cao hơn, hết tầng này đến tầng khác. Trên vách đá hiện ra các cảnh tượng điêu khắc của Dục giới, phô bày những cảnh tượng của thế giới tham dục, tiếp theo là cảnh tượng của Sắc giới gồm những bậc thánh nhân, và sau hết là các thiên nhân thuộc Vô sắc giới"


Nhìn từ xa, ngôi đền giống như một ngọn đồi hay một kim tự tháp với nhiều tượng Phật và bảo tháp, công trình hoàn toàn được xây dựng và tạc bằng một loại đá núi lửa màu xám khai thác trên đảo Java.



 

 


Ở đây tôi có thể nghe được tiếng gió xôn xao thổi qua các kẽ đá, các pho tượng nhắm mắt lại và hình dung ra cách đây hơn 1000 năm người xưa nơi đây cũng đã từng nghe tiếng gió này và chắc không thể hình dung về 1000 năm nữa sẽ ra sao.
Đó là lịch sử tôi đã hình dung qua tiếng gió ở Borobudur

QUẦN THỂ ĐỀN HINĐU - PRAMBANAN

Đền Prambanan được xây từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 10 để thờ các vị thần của đạo Hindu. Đây cũng là công trình lớn nhất của đạo Hindu trên đảo Java, Indonesia. Phần lớn trong số 240 tháp đá đã bị sụp đổ theo thời gian, nay chỉ còn lại những đống đá và chân nền. Trong khuôn viên 110m2, còn nguyên vẹn khoảng 10 tháp đá lớn nhỏ. Candi Shiva Mahadeva cao 47m là tháp lớn nhất thờ thần Shiva.
Cũng giống như Borobudur, toàn bộ đền Prambanan đều được làm bằng đá xám lấy từ nứi lửa Java, chỉ khác là kiến trúc chóp nhọn cho chúng ta thấy được nét đặc trưng khác biệt giữa kiến trúc Hinđu giáo và Phật Giáo

 

 

   
 
 
 

Và đây chính là mô hình kiến trúc nguyên mẫu của Prambanan lúc ban đầu :


Xa xa ngọn núi Merapi vẵn phun những cuộn khói xám đầy đe dọa. Merapi chỉ cách Borobudur và Prambanan khoảng 25-30km. Hy vọng Merapi tiếp tực ngủ sau đợt phun trào dữ dội hồi tháng 11/2010 để Jogja cùng với Borobudur và Prambanan được bình yên.

 2. MENDUT (Candi Mendut)

Mendut là một chùa Phật xây khoảng thế kỷ 9 ở làng  Mendut, Mungkid  ngoại ô quân  Magelang Regency, Central Java, Indonesia. Chùa cách Borodur 3 km  về phía đông. Borobudur. Mendut, Borobudur and Pawon,  đều là chùa Phật  nằm trên một đường thẳng . Đây cũng là nơi tu họp nhiều tôn giáo  giữa ba chùa.

File:Mendut Temple Afternoon.jpg


File:COLLECTIE TROPENMUSEUM De Candi Mendut TMnr 10015974.jpg

File:Buddha Mendut.jpg









3. PAWON ( Candi Pawon)

Pawon (known locally as Candi Pawon) là một chùa Phật ở  Central Java, Indonesia., ở giũa  hai chùa Phật  Borobudur (1.75 km  ở đông bắc và chùa  and Mendut (1.15 km (0.71 mi) về phía tậy nam, xây khoảng  triều đại  Sailendra  ( thế kỷ 8-9). Các chạm trổ xưa hơn Borobudur. 
Ba chùa Borobudur-Pawon-Mendut  đều nằm trên một đường thẳng.


 
 
Pawon temple, 1900.
File:Kalpataru Candi Pawon.jpg Relief of Kalpataru tree on the outer wall.

4. KALASAN

Kalasan (Indonesian: Candi Kalasan),  Candi Kalibening, là một chùa Phật ở thế kỷ 8. ở Indonesia, cách  Yogyakarta  13 km về phía đông  trên đường đến  chùa  Prambanan , và phía nam giữa  Yogyakarta and Surakarta.
Dù được người Đức tái thiết từ thời thuộc địa, nay chùa đang xuống cấp.

File:Kalasan Temple.jpg 
Kalasan Temple

File:Kalasan Kala.jpg
The giant Kala's head on the southern door



5. SARI TEMPLE Candi Sari (Indonesian: Candi SariCandi Bendah),  là chùa Phật vào thế kỷ 8, ở  làng Dusun Bendan, Tirtomartani village, Kalasan, Sleman regency, Yogyakarta.  Chùa ở cách chùa Kalasan 130 m về phía bắc, có hai tầng bằng gỗ sàn, cầu thang cũng bằng gỗ. nay thì hư hại, không còn nữa.  Chùa này là tu viện cho các tu sĩ ở. Chữ  Sari hay  Saré có nghĩa là ngủ.  LE ( Candi Sari)

Candi Sari

inside Candi Sari 

The replica of Candi Sari in Dutch East Indies pavilion, Paris Exposition Universelle (1900)

6. SEWU
Sewu   là một chùa Phật x6ay vào thế lkỷ 8, ở phìa bắc cách Prambanan in Central Javaan  800m. . Candi Sewu là cảnh chùa lớn thứ hai  ở  Central Java sau  Borobudur. Candi Sewu xây trước  "Loro Jonggrang".  Kiến trúc này có 249 ngôi chùa nay thì lên đến hàng ngàn chùa.  Tên chính thức xưa là Manjusrigrha.

  The Sewu temple compound

 
 Sewu Temple
File:COLLECTIE TROPENMUSEUM De Candi Sewu TMnr 10016113.jpg
Chùa  chính Sewu trước khi tái thiết

File:Sewu Aerial view.jpgCảnh chùa từ trên không nhìn xuống

 File:Sewu09 43.jpg
 Tượng Bồ tát ở trên tường


 

 

 Cành chùa hoang phế

 7. BANYUNIBO

Banyunibo (Javanese: "dripping water") là một chùa Phật xây từ thế kỷ 9, ở xóm Cepit, làng  Bokoharjo, Prambanan, Sleman Regency, Yogyakarta, Indonesia.  Chùa ở giữa vùng bùn đông nam Ratu Boco. Chùa được xây từ triều đại Medang và ở trong vùng thung lũng chật hẹp, và ở phía đông   Yogyakarta. Phía bắc có chùa  Prambanan temples,và phía nam đồi Gunung Sewu kéo dài đến đồi Gunung Kidul.
 
File:Banyunibo09 4.jpg
 Banyunibo located in the center of paddy field southeast of Ratu Boko
 
Thác nước Banyunibo 
 


Candi Banyunibo

Makara staircase banister with a small lion standing in its mouth. 

Goddess in a niche located above one of the window exteriors on the outer walls of the main cella. 
Standing male deity at one of the corners of the main cella 
 

Goddess in a niche located above one of the window exteriors on the outer walls of the main cella.

 8.CANDI PLAOSAN

Candi Plaosan, hay tổng hợp  'Plaosan Complex', là một tập hợp chùa Phật giáo  ở làng Bugisan, quận  Prambanan  thuộc, Central Java, Indonesia, cách nhà thờ Hồi giáo  Prambanan về phía tây bắc một km  Candi Plaosan  chiếm diện tích  2,000  met vuông  và ở độ cao 148 m trên mặt bể. Sông Dengok  gần đó, khoảng 200m.  Xung quanh chùa Candi Plaosan là đồng lầy, nhiều thảo mộc như chuối và bắp
 File:Plaosan Temple.jpg
 Một trong hai chủa chính Plaosan Lor compound.

 File:Avalokitesvara Plaosan.jpg
Hình Quan Âm trên tường.

File:Plaosan Temple Guardian.jpg Dvarapala, the giant guardian in front of Plaosan Temple.(Tượng Hộ Pháp ở trước chùa)

 File:Candi-plaosan 09N8085.jpg
 Candi Plaosan
 File:Candi-plaosan 09N8077.jpg
  Candi Plaosan
 File:Candi-plaosan 09N8093.jpg
 trong chùa

 

 D. EAST JAVA
 JABUNG

 Jabung  là chùa Phật giáo xây khoảng thế kỷ 14,  vào triều dại Majapahit  ở làng  Jabung Paiton, Probolinggo, đông  Java. Chùa xây mái ngói, cao khoảng 16, 20m. Vua  Hayam Wuruk  đã đến thăm trong dịp ngài đi khắp Đông Java năm 1359 CE.Cách kiến trúc giống như chùa
 Bahal temple  ở  Padang Lawas, thuộc bắc  Sumatra.

File:Candi Jabung B.JPG
 Jabung temple

File:Candi Jabung D.JPG
 The detail of kala's head on upper part of the niche

 File:COLLECTIE TROPENMUSEUM De Candi Jabung bij Probolinggo TMnr 60014019.jpg
  Jabung temple in 1866

1 comment:

  1. Đọc hết mới thấy được lịch sử có nhiều công trình vĩ đại
    gia may nuoc nong nang luong mat troi | ong ppr

    ReplyDelete