HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Sunday 14 July 2013

NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM I





 CHƯƠNG XXXVII

NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO  VIỆT NAM I


I. LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Phật giáo Việt NamPhật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm khác biệt so với Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo của các nơi khác trên thế giới. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2005, hiện có gần 10 triệu tín đồ Phật giáo [1], còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy y tam bảo, có 839 đơn vị gia đình Phật tử[2] và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường...
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang PhậtMan Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189[3].


Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt"[3], từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa[3], Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".


Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu [4].
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
  • từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp;
  • thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;
  • từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
  • từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh Độ tôngMật tông.
(WIKIPEDIA)

II. NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
 
Tuy nằm trong khu vực Đông Nam Á cũng như thuộc về những nước Phật giáo Nam truyền về mặt địa lí, nhưng Việt Nam được xếp vào những nước theo Phật giáo Đại thừa, nghĩa là Phật giáo Bắc truyền. Từ thế kỉ thứ nhất đến thế kỉ thứ 9, Bắc Việt trực thuộc Trung Quốc và đã thừa kế truyền thống Nho giáoPhật giáo Đại thừa từ xứ này - và cùng với Phật giáo, nghệ thuật Phật giáo cũng được truyền bá tại Việt Nam.

Tại miền Nam Việt Nam hiện nay - thời xưa một phần thuộc về vương quốc Phù Nam, một phần thuộc về vương quốc Champa - chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ du nhập trực tiếp bằng đường biển. Vì vậy, Phật giáo Đại thừa đã được biết đến rất sớm, nhưng tôn giáo chính ở đây vẫn là Ấn Độ giáo.

Phong cách nghệ thuật "Ấn Độ hóa" tại miền Nam - vốn có nhiều điểm giống với nghệ thuật Khmer thời kì Angkor. Cả hai đều chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Java (Indonesia) - tồn tại đến thế kỉ 15, khi Champa bị Việt Nam xâm chiếm (1471), và cuối cùng, bị tiêu diệt hoàn toàn vào khoảng 1720. Nhiều di tích nghệ thuật của vương quốc Champa còn tồn tại, ví dụ như một số đền thờ (tháp Chàm) và hình tượng bằng đá cát. Ngoài ra, gỗ cũng sớm được dùng cho những tác phẩm nghệ thuật. Di tích cổ nhất là một bức tượng Phật bằng gỗ, được tạc trong thế kỉ thứ 6 và hiện đang được lưu giữ trong viện Bảo tàng Lịch sử tại Saigon.


Đời nhà Mạc (1527-1592) và nhà Hậu Lê (1533-1788) được xem là thời kì vàng son của nghệ thuật Phật giáo. Tượng Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt tại chùa Bút Tháp được nghệ nhân Trương Thọ Nam đúc vào năm 1656 là một trong những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo quan trọng nhất của Việt Nam. Tuy có khác chút ít về chi tiết, nhưng tượng Quán Thế Âm tại chùa Bút Tháp có thể được xem là được đúc theo một mô hình Ấn Độ. Đây là bức tượng được triều đình cung tiến cho chùa, nên có sự đầu tư lớn và là bức tượng duy nhất trong hệ thống tượng cổ Việt Nam có ghi niên đại năm tạc, danh tính người tạc. Trên tượng có ghi: "Tuế thứ Bính Thân niên, thu nguyệt, cốc nhật doanh tạo. Nam Đông Giao Thọ nam tiên sinh phụng khắc". Tượng phối hợp cả hai dạng xuất hiện của Quán Thế Âm, đó là Quán Thế Âm Thập nhất diện đại bi thế tự tại (zh. 十一面大悲世自在, sa. ekādaśamahākāruṇika-lokeśvara) với 8 tay và Thiên thủ thiên nhãn thế tự tại (zh. 千手千眼世自在, sa. sahasrabhuja-lokeśvara) với gần 1000 cánh tay, đồng thời, trong lòng mỗi bàn tay đều có chạm một con mắt, làm cho bức tượng mang ý nghĩa kép.

Những cánh tay ở đây vừa là ánh hào quang độ lượng của Phật, vừa tượng trưng cho những bàn tay dang ra cứu vớt đời, vừa là những con mắt thấu suốt coi sóc đến chúng sinh. (Riêng tượng Quan Âm ở chùa Mễ Sở, Hưng Yên thì có hơn 1000 cánh tay và mắt). Truyền thuyết kể lại rằng, khi nhìn nỗi khổ của chúng sinh trong địa ngục, ngài kinh hoảng đến mức đầu vỡ tung thành 10 mảnh. A-di-đà, vị Phật đỡ đầu của ngài, biến mỗi mảnh đầu vỡ đó thành một đầu (hoặc gương mặt) nguyên vẹn. 9 gương mặt hiền hậu, gương mặt thứ 10 là hung tợn vì người ta cho rằng, với một gương mặt hung tợn Bồ Tát dễ xua đuổi các loại tà ma.

 Gương mặt thứ 11 (hoặc nguyên hình tượng) là Phật A-di-đà. Trong tượng "nghìn tay nghìn mắt" (một con số lí tưởng không thể thực hiện được) thì mỗi tay của Quán Thế Âm cầm một con mắt, tượng trưng cho lòng đại bi của ngài, vốn không loại chúng sinh nào ra; cho biết là lòng quan tâm của ngài đi đến mọi nơi và ngài có đủ phương tiện để cứu độ tất cả chúng sinh đúng theo lời nguyện của một vị Bồ Tát. (Xem chi tiết bài Tượng Quan Âm chùa Bút Tháp).
Việt Nam hiện có 14.775 ngôi chùa, chiếm 36% tổng số di tích Việt Nam. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, một số chùa Việt Nam ngoài thờ Phật còn thờ thần (điển hình là thờ các vị thiền sư: Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Trần Nhân TôngLý Thần Tông), thờ tam giáo (Phật – Lão – Khổng), thờ Trúc Lâm Tam tổ ...[1]
Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ "chiền" (chữ Nôm: 廛 hoặc 纏)... Một số người cho rằng từ "chiền" có thể có gốc từ cetiya của tiếng Pali hay caitya của tiếng Phạn, cả hai dùng để chỉ điện thờ Phật.

Khái quát

Theo câu tục ngữ Việt Nam "đất vua, chùa làng", các ngôi chùa đa số là thuộc về cộng đồng làng xã.[2] Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Việc chọn đất xây chùa thường bị chi phối bởi quan niệm phong thủy. "Xây dựng chùa, phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không, hoặc có sông ngòi, ao hồ ôm bọc. Núi hổ (hay tay hổ) ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại, hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long báu hoặc có hình rồng, phượng, quy, chầu bái. Đó là đất dương cơ ái hổ (nền dương có tay hổ) vậy. Nước thì nên chảy quanh sang trái. Nếu đảo ky, thì mạch nước lại vào ở phía trước. Trước mặt có minh đường hay không có đều được cả.
Các Chùa Việt Nam thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc như tre, tranh cho đến gỗ, gạch, ngói... Nhưng người ta thường dành cho chùa những vật liệu tốt nhất có thể được. Vật liệu cũng như tiền bạc dùng cho việc xây dựng chùa thường được quyên góp trong mọi tầng lớp dân cư, gọi là của "công đức". Người ta tin là sẽ được hưởng phúc khi đem cúng vật liệu hay tiền bạc cho việc xây dựng chùa. Trên những cột gỗ lim không bị mối mọt, một số chùa khắc rõ tên người đóng góp. Ngoài ra các tên này cũng được ghi ở các bàn thờ bằng đá hoặc trên các đồ sành, sứ như bát hương, bình hoa, chân đèn... trong một danh sách dài.
Ngày bắt đầu xây dựng chùa cũng như ngày khánh thành đều là những thời điểm có ý nghĩa trong đời sống nhân dân làng quê Việt Nam. Thường có những nghi lễ đặc biệt trong những ngày này.
Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình mà là một quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí những ngôi nhà này mà người ta chia thành những kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Hán có dạng gần với mặt bằng kiến trúc chùa.

Phân loại theo cấu trúc


Mặt bằng chùa chữ Đinh

Mặt bằng chùa chữ Công

Mặt bằng chùa chữ Tam

Mặt bằng chùa chữ Quốc

Chùa chữ Đinh

Chùa chữ Đinh (丁), có nhà chính điện hay còn gọi là thượng điện, là nhà đặt các bàn thờ Phật, được nối thẳng góc với nhà bái đường hay nhà tiền đường ở phía trước. Một số chùa tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Hà, chùa Bộc (Hà Nội); chùa Nhất Trụ, chùa Bích Động (Ninh Bình); chùa Trăm Gian (Hà Nội); chùa Dư Hàng (Hải Phòng),...

Chùa chữ Công

Chùa chữ Công (工) là chùa có nhà chính điện và nhà bái đường song song với nhau và được nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà thiêu hương, nơi sư làm lễ. Có nơi gọi gian nhà nối nhà bái đường với Phật điện này là ống muống. Tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Cầu (Hội An); chùa Keo (Thái Bình),...

Chùa chữ Tam

Chùa chữ Tam (三) là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường được gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Chùa Kim Liên, chùa Tây PhươngHà Nội có dạng bố cục như thế này.

Chùa kiểu Nội công ngoại quốc

Chùa kiểu Nội công ngoại quốc là kiểu chùa có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường (có thể là nhà tổ hay nhà tăng) ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc khác ở giữa. Bố cục mặt bằng chùa có dạng phía trong hình chữ Công (工), còn phía ngoài có khung bao quanh như chữ khẩu (囗) hay như ở chữ Quốc (国).
Đây là các dạng bố cục của các công trình kiến trúc chính. Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ, là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã tịch, hoặc nhà tăng, nơi ở của các nhà sư và một số kiến trúc khác như gác chuông, tháp và tam quan.
Chùa kiểu chữ Công (工) là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên có một số ngoại lệ, tiêu biểu là chùa Một CộtHà Nội có hình dáng một bông sen nở trên mặt nước, hay ngôi chùa mới được xây cất như chùa Vĩnh Nghiêm có hai tầng ở Thành phố Hồ Chí Minh mang trong mình cả những nét truyền thống Phật giáo và cả những thành tựu của kiến trúc. Nhưng những ngoại lệ như vậy không nhiều.

Kiến trúc

Kiến trúc chùa Việt Nam được xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và không gian khác nhau, ở các phong cách kiến trúc địa phương. Chùa kiểu chữ Tam phổ biến hơn miền Nam hơn ở miền Bắc. Chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản. Chùa của người Khmer xây theo kiến trúc của CampuchiaThái Lan - vốn ảnh hưởng văn hóa của đế chế Khmer. Chùa của người Hoa cũng có sắc thái kiến trúc riêng.[3]

Tam quan

Tam quan là bộ phận không thể thiếu trong thành phần chùa Việt Nam, là cổng vào chùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có hai tam quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của Tam quan có thể dùng làm gác chuông.

Sân chùa

Qua Tam quan là đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày đặt các chậu cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Diện tích của sân chùa phụ thuộc vào những điều kiện và đặc điểm riêng của từng chùa. Trong sân chùa, đôi khi có các ngọn tháp được xây dựng ở đây như ở chùa Dâu, chùa Thiên Mụ.

Bái đường

Từ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn gọi là tiền đường, nhà thiêu hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà bái đường có thể đặt một số tượng, bia đá ghi sự tích của ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánh nếu như ngoài cửa Tam quan không xây gác chuông. Giữa bái đường là hương án, nơi thắp hương chính. Thông thường người đến lễ chùa thắp hương ở đây. Số gian của bái đường tùy thuộc vào qui mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian.

Chính điện

Qua nhà bái đường là chính điện. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng trống không rộng lắm, để cho ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện là phần quan trọng nhất của ngôi chùa vì nơi đây bày những pho tượng Phật chủ yếu của điện thờ Phật ở Việt Nam.

Hành lang

Chạy song song với chính điện, nối chính điện với hậu đường là hai gian hành lang, tạo thành một nhà ba gian.

Hậu đường

Qua nhà chính điện, theo đường hành lang ta đến nhà tăng đường (còn gọi là nhà hậu đường), cũng còn gọi là nhà tổ. Nhà hậu đường ở một số chùa trong miền nam Việt Nam liền sát sau nhà chính điện, ngay sau phía bàn thờ Phật.
Trong thực tế, chùa có nhiều biến thể khác nhau. Ở một số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện thờ Thần, đó là loại chùa tiền Phật hậu Thần phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Có chùa có gác chuông ở phía trước, có chùa có gác chuông ở phía sau, có chùa gác chuông ở ngay trên cửa Tam quan, có chùa gác chuông lại ở trên nhà tổ. Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt, như chùa Dâu ở tỉnh Bắc Ninh, chùa Phổ Minh ở tỉnh Nam Định, nhưng một số chùa khác lại đặt các tháp ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng như chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, Chùa Bổ Đà ở tỉnh Bắc Giang...
Ngoài công trình chính, chùa Việt Nam thường có vườn cây, vườn hoa được trồng và chăm chút cẩn thận. Nhiều chùa có cả giếng, ao, hồ sen...

Bài trí tượng thờ trong chùa

Do lịch sử truyền nhập Phật giáo ở Việt Nam, phần lớn chùa Việt Nam là chùa Đại thừa. Do đó, ở nhà chính điện cũng như các tòa nhà khác trong chùa, chúng ta thấy có nhiều tượng Phật, Bồ Tát cùng với các tượng thuộc những hệ phái Phật giáo khác.

Tượng bày trong chính điện


Tượng Phật sơn son thếp vàng trong chùa (ảnh chụp tại chùa Trăm Gian, Hà Tây)
Chính điện bao giờ cũng là nơi trung tâm của sự thờ cúng trong chùa. Ở đây có nhiều lớp bàn thờ làm thành bậc từ cao xuống thấp. Vị trí các tượng được thay đổi linh hoạt theo từng chùa. Có những chùa có rất nhiều tượng như chùa MíaHà Tây, có tới 278 pho tượng, chùa Trăm GianHà Tây có 153 pho tượng... Các lớp bàn thờ được sắp xếp theo nguyên tắc sau: lớp bàn thờ cao nhất ở sâu trên cùng giáp mái chùa, sau đó các lớp bàn thờ đặt tượng cứ thấp dần, tiếp sau lớp bệ thờ cuối cùng bao giờ cũng là hương án. Nguyên tắc bài trí khá uyển chuyển và linh hoạt đối với mỗi chùa. Tuy vậy, một số nét chung thường thấy như sau[cần dẫn nguồn]:
  • Tầng cao nhất của bàn thờ ở chính điện, sát vách, thường có 3 pho tượng gọi là "Tam thế Phật", tức là các vị Phật của ba thời gian: quá khứ, hiện tại và vị lai. Một trong các Phật quá khứ là Phật A Di Đà, Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mầu Ni, Phật tương lai là [Phật Tổ Như Lai]. Ba tượng Tam thế có kích thước và hình dáng giống nhau, đỉnh đầu có gồ thịt nổi cao như búi tóc, tóc xoắn ốc, tai dài, ngực có chữ vạn (+), mình có sắc hoàn kim sáng rực, mặt nguyệt. Ba pho tượng Tam thế được đặt ngồi trên tòa sen.
  • Phía dưới ba pho tượng trên thường xếp ba pho tượng gọi là "Di Đà tam tôn" (còn gọi là "Tây phương tam thánh") gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, tượng Bồ Tát Quán Thế Âm (tiếng Phạn: Avalokiteśvara) ở bên trái và tượng Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên phải. Tượng Phật A Di Đà thường có kích thước lớn hơn các tượng khác. Tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích cao 1,82 m, trong tư thế ngồi toạ thiền, không kể bệ và đài sen; tượng này ở chùa Bần Yên Nhân (Hưng Yên) cao tới 2 m, không kể bệ và đài sen. Hai tượng còn lại là hai vị thị giả giúp việc cứu thế cho Phật A Di Đà nên thường được tạc kiểu đứng chầu bên cạnh. Bộ "Di Đà tam tôn" được đặt ở tầng thứ hai để tỏ ý là mặc dù các ngài ở cõi Cực lạc nhưng vẫn có duyên và gần gũi với cõi Sa bà này, gần gũi với chúng sinh.
  • D­ưới ba pho tượng "Di Đà tam tôn", đã nói bên trên, thường là tượng Phật Thích Ca Mầu Ni (còn gọi là Thích ca giáo chủ) ngồi giữa với tượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở bên trái và tượng Bồ Tát Phổ Hiền ở bên phải. Thích Ca ngồi trên tòa sen, còn Văn Thù và Phổ Hiền đứng trên tòa sen. Bộ ba tượng này thể hiện cảnh Phật Thích Ca Mầu Ni đang thuyết pháp. Có nhiều nơi, thay vào vị trí của Văn Thù và Phổ Hiền là hai đệ tử của Thích Ca là Ca DiếpA Nan Đà khi Phật Thích ca còn đang ở thế gian.
  • Ở lớp ban thờ thứ tư, chiếm vị trí ở giữa là tượng Cửu Long. Hai bên là tượng Đế ThíchPhạm Thiên. Tượng Cửu Long diễn tả Phật Thích Ca Mầu Ni lúc mới sinh. Theo truyền thuyết, khi ngài mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm. Tắm xong, ngài tự đi được bảy bước về phía trước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói "Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn" (trên trời, dưới trời chỉ có một ta), xong ngài lại nằm xuống theo kiểu con trẻ. Đế Thích là vua chủ tể cõi trời dục giới, còn Phạm Thiên là vua chủ tể cõi trời sắc giới. Vì là vua nên tượng các vị được tạc theo chân dung hoàng đế: đội mũ miện, ngồi trên ngai.
Trên bàn thờ chính ở nhà thượng điện, ngoài tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, ở một số chùa còn có tượng Phật Di Lặc. Tượng được tạo với bộ mặt tươi cười, áo phanh, để hở cái bụng to. Thường hai bên tượng này, người ta còn đặt ở bên trái tượng Pháp hoa lâm Bồ Tát, bên phải là Đại diệu tướng Bồ Tát, gọi chung là Di Lặc Tam Tôn. Ngoài ra, ở một số chùa, sau lớp tượng Cửu long, người ta còn bày bốn pho tượng Tứ Thiên Vương. Đó là bốn vị Thiên Vương phân nhau cai quản bốn cõi ở bốn phía núi Tu-di, nơi ngự trị của Đế Thích. Có chùa lại bày tượng Tứ Bồ Tát vào vị trí của Tứ Thiên Vương. Những chùa rộng rãi còn bày thêm tượng tám vị Kim cương (Bát bộ Kim cương) ở hai bên sát chính điện, mỗi bên bốn vị, mặc giáp trụ và cầm vũ khí.
Tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay cũng thấy được bày bổ sung vào điện chính. Cần lưu ý là các tượng Đức Quan thế âm có nhiều biến thể nhất trong các chùa ở Việt Nam[cần dẫn nguồn] và các biến thể này hầu hết lại được diễn tả bằng hình tướng nữ: Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, Quan Âm Thị Kính. Cũng ở nhà chính điện, ở hai bên dãy bàn thờ chư Phật có thể gặp lại tượng thờ Thái thượng Lão quân ở bên phải và Khổng Tử ở bên trái. Đây là hai vị tổ của Đạo giáoNho giáo được thờ trong điện thờ Phật của các chùa để diễn tả tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" của xã hội Việt Nam xưa.

Tượng bày trong bái đường

Trong nhà tiền đường (gian bên cạnh của nhà bái đường) thường có hai tượng Hộ Pháp là những vị thần bảo vệ Phật Pháp, mặc giáp trụ, cầm vũ khí, đứng hoặc ngồi trên lưng sấu, một loại sư tử huyền thoại. Kích thước của tượng rất lớn, đắp bằng đất thó. Dân gian vẫn nói "to như ông Hộ Pháp" là cách nói so sánh với hai tượng này. Còn một số thuyết khác, đã thành phổ biến, cho rằng tượng vị bên trái là Khuyến thiện (gọi tắt là ông Thiện), tượng vị bên phải là Trừng ác (gọi tắt là ông Ác). Theo thuyết này thì việc bày đối xứng hai tượng ông Thiện-Ác nói lên sự tồn tại biện chứng của hai bản nguyên Thiện-Ác.
Ở phía Đông nhà bái đường có ban thờ tượng Thổ địa thần, có một số chùa đưa tượng này ra thờ riêng ở một miếu bên cạnh chùa. Ở một số chùa, bên cạnh thờ Thổ địa thần ta gặp bàn thờ Long thần. Theo truyền thuyết, Long vương vốn lúc đầu định hãm hại Phật tổ, phá hoại sự nghiệp của Phật, không cho thành chính quả nhưng đã không phá nổi nên đã quy Phật và hộ trì Phật pháp.
Phía Tây nhà bái đường thường có pho tượng Thánh tăng. Tượng này được bày nhiều nhất ở nhà tăng đường (nhà tổ). Ở nhà tổ, ngoài tượng các vị sư từng trụ trì ở chùa, còn có bàn thờ đặt tượng Bồ Đề Đạt Ma, nhà sư Ấn Độ đến Trung Hoa vào khoảng đầu thế kỷ 6, được coi là người sáng lập Thiền Tông ở đó.
Ở nhà bái đường, đôi khi còn có các bàn thờ mười vị Diêm Vương, được gọi là thập điện Diêm Vương, tức mười vị vua cai quản mười tầng địa ngục.

Tượng bày ở nhà hành lang

Nhà hành lang có thể là hai dãy nhà chạy song song ở hai bên nhà chính điện. Cũng có thể là hai dãy như vậy mà chung mái với nhà điện chính và mang đúng nghĩa là hành lang, theo hai lối hành lang này có thể đi tiếp vào hậu đường. Người ta thường bày tượng 18 vị La Hán, mỗi bên 9 tượng. Có chùa như chùa KeoThái Bình, các tượng La Hán được bày ngay ở tiền đường. Còn ở chùa Tây Phương, Hà Tây lại là các tượng Tổ (trong 28 vị) người Ấn ĐộThiền tông Trung Quốc thừa nhận. Kích thước tượng La Hán tương tự như người thực, các vị ngồi trên tảng đá hay gốc cây, mỗi vị có một tư thế riêng, có dáng đang duy nghĩ trầm mặc. Sự đông đảo và đa dạng của các pho tượng này đã cho ra đời một thành ngữ "bày la liệt như La Hán". Cũng có khi tượng La Hán được bày ở nhà hậu đường.

Tượng bày ở nhà tăng đường

Nhà tăng đường còn gọi là nhà hậu đường vì nằm sau chính điện, có thể được xây tách rời hoặc liền sát với chính điện. Cách bố trí tượng thờ ở nhà hậu đường cũng khá đa dạng, nhưng có thể hình dung một công thức sau: Gian giữa của nhà tăng đường thường có bày tượng Thánh tăng (còn gọi là A-nan-đà) và tượng Đức tổ Tây. Đức tổ Tây có pháp danh là Bồ-đề-đạt-ma. Ngài được coi là sư tổ thứ nhất của Thiền tôngTrung Quốc.
Ở nhà hậu đường của một số chùa còn bày tượng Quan Âm tống tửQuan Âm tọa sơn. Hai bên tượng Quan Âm tống tử thường có hai tượng Kim đồngNgọc Nữ, hay hai tượng Thiện tàiLong nữ.
Chùa Việt Nam còn có một điều đặc biệt đó là có các bàn thờ chư vị tức là các vị thánh của Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Đó là bàn thờ Mẫu, tức nữ thần mẹ. Có nhiều Mẫu như: Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa Phủ, Mẫu Liễu, Tứ pháp...
Trong một số chùa, đằng sau điện thờ Phật là hậu cung thờ một vị thần. Các vị thần được thờ đều là những "nhân thần", có nghĩa là những con người được coi là có thực, nhưng về sau nhờ học tập, tu luyện, đã có tài thần thông biến hóa, nghĩa là có những khả năng của một vị thần. Nhờ những khả năng đó, họ cứu dân giúp nước và vì vậy, họ được nhân dân một vùng hay nhiều vùng thờ phụng.
Ngoài ra, các nhân vật lịch sử thực sự cũng được thờ tại chùa. Họ là những ông quan, những danh sĩ hay những vị tướng đã có công với nước hay với nhân dân một vùng như Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên thời nhà Trần được thờ ở chùa Dâu, Bắc Ninh hay Đặng Tiến Đông, vị tướng thời nhà Tây Sơn, được thờ ở chùa Trăm Gian, Hà Tây. Trong các chùa này, thường có tượng chân dung các nhân vật lịch sử được thờ.
Một hình thức thờ tự khác gắn với các chùa Việt Nam là thờ "hậu". Hình thức này có mối liên hệ với tập tục thờ cúng tổ tiên đã hình thành lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người không có con muốn được thờ cúng sau khi chết, đã tìm đến nhà chùa. Họ đóng góp cho chùa một số tiền hay ruộng đất và xin nhà chùa cúng lễ họ sau khi chết. Sự thờ cúng này gọi là thờ "hậu". Trong nhiều chùa, bàn thờ "hậu" thường là một hành lang với những bát hương, đặt trước những tấm bia đá, gọi là bia "hậu", trên đó có khắc rõ tên tuổi, quê quán của những người không có con cháu nối dõi, thường là cả vợ và chồng, cùng với số tiền họ đóng vào chùa và yêu cầu được thờ ở chùa. Ở chùa Cổ Lễ Nam Định, các bia hậu được gắn dày đặc trên tường hành lang bao quanh chính diện.

Các pháp bảo trong chùa

Bát

Bát là một trong 6 vật dụng của nhà sư. Cái bát bắt nguồn từ truyền thuyết kể về chiếc bát khất thực. Ở các tượng của Phật A-di-đà hay Thích Ca Mâu Ni có thể đôi khi bắt gặp cái bát trên hai tay.

Liên hoa

Liên hoa (hay hoa sen) tượng trưng cho diệu pháp của đạo Phật, cùng một lúc có cả hoa và quả, sinh nở ra nhiều điều tốt lành. Trong điêu khắc và hội họa Phật giáo, hoa sen thường xuyên được xuất hiện. Chư Phật, Chư Bồ Tát đều ngồi trên tòa sen và những người được Phật độ về cõi Tây phương Cực lạc đều ngồi trên tòa sen.

Chuông

Ở mọi thời đại, chuông được dùng để thức tỉnh và gọi. Tiếng chuông ngân lên rồi tắt lụi, có thể nghe được mà không bắt được. Sự vô thường của thế giới hiện hữu là một tư tưởng của Phật giáo. Mọi thứ đều sẽ tàn lụi, chúng hiện hữu trong cảm giác người quan sát nhưng lại không có thực. Giống như tiếng chuông, mọi thứ đều nhất thời. Theo nghi lễ Phật giáo, chuông được dùng để kêu gọi tín đồ cầu nguyện và lễ Phật. Có hai loại chuông: chuông to dùng để treo trên gác Tam quan hay ở nhà Bái đường, có thể nặng tới vài trăm kg; loại chuông thứ hai là chuông nhỏ hơn, tượng trưng, thường đặt ở tay một số vị thánh như Tứ đại Thiên Vương hay Quan Âm nghìn mắt nghìn tay.

Gương

Chiếc gương tượng trưng cho sự hư không và nó phản ánh tất cả mọi yếu tố của thế giới hiện hữu nhưng lại thu lấy bản chất của chúng[cần dẫn nguồn]. Thế giới hiện tượng được phản chiếu đầy đủ nhưng toàn thể bản chất chỉ là hư ảo, mọi sự chỉ là ý tưởng chủ quan mà người ta có vật ấy, Vì thế, gương diễn tả sự phù du của ảo ảnh 
(Wikipedia)

III. CÁC KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM

A.  CÁC CHÙA Ở  HÀ NỘI

1- CHÙA LÁNG - Đống Đa

Chùa Láng, hay còn gọi là Chiêu Thiền tự (Chữ Hán: 昭禪寺), là một ngôi chùa ở làng Láng, Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Tên chùa có ý nghĩa rằng: "Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền". Người Pháp gọi là Pagode des Dames.
Chùa có cảnh quan đẹp, được miêu tả rõ trong tấm bia có niên đại Thịnh Đức thứ tư (1656): “Thật là danh lam bậc nhất, thế gian không có chùa nào sánh kịp. Khí tốt phượng thành bên hữu tỏa khắp, dòng sông Tô Lịch bên tả lượn vòng, Nhị Hà nghìn dặm quanh kinh đô uốn khúc, như rồng xanh lớp lớp chầu về, Tản Viên dãy núi đầy khí đẹp hướng vào, như hổ trắng đàn đàn đến họp”. Giờ đây, mặc dù xung quanh luôn ồn ào xe cộ, nhưng chùa Láng vẫn là chốn thiền lặng, bình yên, như tách hẳn bụi trần.

Cổng chùa có kết cấu 4 cột trụ vuông, 3 mái cong gắn vào sườn cột (ảnh). Phía ngoài, chính giữa cổng tam quan treo một bức hoành phi lớn được sơn son thếp vàng đề 4 chữ “Thiền thiên khải thánh” (trời thiền sinh thánh) nhắc mọi người về một chốn linh thiêng. Phía dưới là đôi câu đối được ghép bằng những mảnh sứ màu xanh lam theo lối khải thư, nét chữ mềm mại, bay bướm làm tăng thêm vẻ cổ kính, trang trọng cho đại danh lam cổ tự này.

Bước qua lớp cổng thứ hai, dọc đường thần đạo, hai hàng muỗm cổ thụ thẳng hàng, gốc rễ sù sì, mỗi gốc cỡ vài vòng tay ôm, hàng trăm năm vẫn thâm nghiêm rợp bóng. Thấp thoáng ẩn hiện trong nắng tinh khôi những hàng cau thẳng tắp, những cây đại cằn cỗi rụng hoa trắng gốc. Đến độ khai hoa, hương bưởi, hương cau quyện hoà, toả mùi thơm dìu dịu khiến người ta quên đi những mệt nhọc, toan tính đời thường.

Chùa Láng - Hà Nội

Điểm nhấn về nghệ thuật kiến trúc phong thủy là nhà bát giác ở giữa sân chùa, mái chồng, 2 tầng, 16 mái với những đầu đao cong vút, uốn lượn rất thanh thoát. Các tầng mái được lợp ngói vẩy, rêu phong đã phủ lớp bụi thời gian lên những tầng mái này. Đỉnh nóc được đắp hoạ tiết 4 con phượng đang múa (phượng vũ) uyển chuyển. Tầng mái bên trên đắp 8 con rồng cuộn nhìn uy vũ mà bao dung, tượng trưng cho sự tồn tại của 8 triều vua nhà Lý.

Tầng mái phía dưới lại đắp hoạ tiết những dải sấu miệng ngậm các đầu đao, khiến cho các đầu đao được phô ra rất khéo, không bị cảm giác sắc nhọn, mà rất hài hoà. Dưới mỗi đầu đao là các đầu bẩy có gắn những bức cốn được chạm khắc hình rồng, phượng ẩn hiện trong mây với các hoạ tiết vô cùng tinh xảo, mềm mại. Tường phía trong nhà bát giác là những bức thư hoạ, nét bút có thần với nhiều chủ đề phong phú, có giá trị nghệ thuật cao.






Trong chùa có 198 pho tượng lớn nhỏ, tiêu biểu là tượng Lý Thần Tông (1128 - 1138) ngồi trên ngai vàng và pho tượng Từ Đạo Hạnh đan bằng mây phủ sơn bên ngoài. Chùa Láng còn có 15 tấm bia đá, nổi bật là tấm bia đá xanh có niên đại Thịnh Đức thứ tư (1656) cao 1,4 mét, rộng 0,8 mét. Trán bia có hoa văn lưỡng long chầu nguyệt, hai diềm bia chạm phượng chầu hoa sen và hai tiên nữ với đôi cánh rướn bay lên trời xanh. Tấm bia này xứng đáng được coi là một kiệt tác điêu khắc nghệ thuật đá thời Lê. Trước đây, chùa còn cả cuốn kinh bằng đồng lá (bát diệp đồng thư) của vua Lý thường dùng để tụng niệm, nay đã thất lạc.

Thiền sư Từ Đạo Hạnh vốn sinh ra trên đất Láng, tu hành ở chùa Thầy (Sài Sơn), đầu thai thác hóa làm con Sùng Hiền Hầu (em ruột Vua Lý Nhân Tông), được Vua Lý Nhân Tông dưỡng dục rồi truyền ngôi, trở thành Hoàng đế Lý Thần Tông. Chùa Láng do Vua Lý Anh Tông (1138-1175) cho xây dựng để thờ tiên đế và tiền kiếp của ngài, để đến ngày nay vẫn còn lưu truyền câu ca dao: “Nhớ ngày mùng bảy tháng ba/ Trở về hội Láng trở ra hội Thầy”.

2- CHÙA PHỤNG THÁNH- Đống Đa


Chùa Phụng Thánh hiện ở ngõ Cống Trắng, phố Khâm Thiên, phường Trung Phụng, quận Đống Đa, Hà Nội.Chùa Phụng Thánh cũng như làng Phụng Thánh được lý giải bằng truyền thuyết rất xưa liên quan đến vương triều Lý (1010 – 1225).Theo truyền thuyết vào thế kỷ 12, dưới triều Lý, có một công chúa rất xinh đẹp, nàng quan tâm đến đời sống của nhân dân và phong cảnh đất nước. Một hôm nàng xin phép vua cha cho đi du ngoạn trên một chiếc thuyền.
 

Khi con thuyền đưa nàng công chúa đến một chiếc hồ lớn thì gặp một cơn giông, làm thuyền bị đắm chết. Nhà vua bèn sai quân lýnh vớt xác, nhưng công chúa đã làm nhiều điều thiện giúp dân nên được hóa Phật. Để tưởng nhớ công lao của nàng, dân quanh vùng đã chọn mảnh đất quanh hồ để xây miếu thờ. Sau đó dân làng lại đóng góp công sức xây dựng nên ba gian nhà gỗ ở phía sau miếu để thờ Phật. Đó là tiền thân của di tích chùa Phụng Thánh.

http://static.panoramio.com/photos/large/62610856.jpg


Sau một thời gian tồn tại lâu dài, đến thời Tây Sơn, di tích nằm trong khu vực chiến trường Đống Đa, nên chùa bị hủy hoại. Sau cơn bin hòa, đến thời Nguyễn, chùa được phục hồi vào năm Ất Mão (1855) và năm Ất Sửu (1865). Đến đêm 26-12-1972 chùa bị bom B52 Mỹ phá sập khu chùa chính. Năm 1973 nhà sư Đàm Ánh trụ trì tại chùa đã tiến hành xây dựng lại di tích như hiện nay.

 

Di tích được dựng trên một khu đất bằng phẳng và có một khuôn viên rộng lớn bao quanh. Chùa quay mặt về hướng nam, trông ra hồ nước rộng. Trước đây, đi tích bao gồm tam quan, chùa chính, nhà tổ, nhà ngang, sân sạch và khu vườn rộng bao quanh. Do sự phát triển dân cư, tam quan chùa không còn, nên lối vào chùa hiện nay là một lối nhỏ, cửa gỗ dẫn vào hành lang nhà tổ và nhà Mẫu.


 


Các bộ phận kiến trúc chùa Phụng Thánh được xếp đặt trên trục bắc – nam. Sau chùa chính là sân gạch vuông dẫn tới nhà Tổ, hai dãy dải vì nằm song song với hậu cung chùa và và sân gạch tới hiên trước nhà Tổ.
Chùa chính thờ Phật, trong chùa lưu giữ 29 pho tượng tròn, trong số đó có 21 tượng hệ Phật điện, 8 pho tượng Mẫu, 2 quả chuông đồng, đồ gốm sứ, đồ gỗ, các bức đại tự, câu đối sơn son thếp vàng, bia đá.
Chùa vẫn bảo lưu được nhiều nét đẹp của kiến trúc truyền thống, đó là sự hài hòa giữa kiến trúc và cảnh quan, giữa các bộ phận kiến trúc với nhau. Các pho tượng cổ có giá trị là những tác phẩm nghệ thuật điển hình của thời Nguyễn.
Chùa đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 16.11.1988.


 3. CHÙA MỘT CỘT-Ba Đình

 
Chùa một cột

Chùa Một Cột hay Chùa Mật (gọi theo Hán-Việt là Nhất Trụ tháp 一柱塔), còn có tên khác là Diên Hựu tự (延祐寺) hoặc Liên Hoa Đài (蓮花臺, "đài hoa sen"), là một ngôi chùa nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo ở Việt Nam.Thuộc quận Ba Đình - Hà Nội


4- CHÙA TRẤN QUỐC -Ba Đình

Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây, ở cuối đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội.Chùa có lịch sử 1500 năm, được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang.

Chùa Trấn Quốc
Bảo tháp đài sen ở chùa Trấn Quốc

  Là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long vào thời và thời Trần. Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc, chùa Trấn Quốc nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử và khách tham quan, du lịch trong ngoài Việt Nam.

Chùa Lý Triều Quốc Sư


5- CHÙA BÁT THÁP- Ba Đình

Chùa Bát Tháp (Bát Tháp tự) còn gọi là chùa Vạn Bảo ở chỗ số nhà 203 phố Đội Cấn hiện nay. Đây là ngôi chùa của làng Vạn Phúc., phường Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội.Chùa Bát Tháp xây dựng trên đoạn ngọn núi Vạn Bảo, một ngọn núi thấp ở kinh thành Thăng Long vào thời Lý Trần.


Sau chùa đã khai quật được nhiều di vật thời Lý, Trần. Đến năm Gia Long thứ 2 (1803), dân làng Vạn Phúc hợp cả chùa trên núi Voi và chùa Vạn Bảo thành chùa Bát Tháp. Về tên gọi Bát Tháp, Biệt Lam Trần Huy Bá giải thích vì chùa có “ngọn tháp đế hình bát”. Chùa quay về hướng nam, có tam quan, tòa tam bảo, nhà tổ và khu vườn phía sau. Tòa tam bảo nằm trên vị trí cao nhất của ngọn Vạn Bảo Sơn, có mặt bằng hình chuôi vồ, gồm tiền đường 7 gian, 2 dĩ và hậu cung 3 gian.
Trong chùa còn giữ được nhiều pho tượng, di vật, chạm khắc mang phong cách thế kỷ 19, trong đó có quả chuông đúc năm Gia Long 2 (1803).

 
Lối lên Đại hùng bảo điện

Vạn Bảo là hòn núi thấp của khu vực phía Tây kinh thành Thăng Long và nơi đây cũng là một trong 13 trại, tương truyền được tạo lập từ thời Lý, cùng với câu chuyện về ông Hoàng Lệ Mật được vua cho khai khẩn vùng đất này. Chùa Bát Tháp (hay chùa Vạn Bảo) được xây dựng từ rất lâu đời, kết quả khai quật khảo cổ học ở chùa trước đây đã cho thấy nhiều phế tích văn hoá vật chất thời Lý - Trần. Sự tồn tại của di tích suốt thời Lê được khẳng định qua dãy tường hậu cung của nhà Tổ được xây bằng những viên gạch vồ phổ biến của thời này. Tuy nhiên, hiện nay diện mạo của ngôi chùa là do lần tôn tạo của thời Nguyễn.

Bàn thờ Tam bảo

Là một di tích thuộc loại hình kiến trúc Phật giáo, chùa Bát Tháp nằm trên một khu đất cao theo hướng Nam, có một khuôn viên rộng rãi, thoáng đạt. Tam quan của chùa khá đồ sộ, xây hai tầng tám mái với lối vào được tạo dựng theo hai dạng thức khác nhau. Cửa chính có bề mặt hình chữ nhật, phần dưới mở vòm cửa lớn trông thẳng vào Tiền đường. Tầng trên mở nhiều cửa nhỏ trông ra bốn phía.

 
 Long án chạm trổ

Hai bên cửa được xây giống nhau trên trổ những cửa tròn “sắc - không” theo giáo lý đạo Phật. Tiền đường có quy mô lớn, hàng hiên trước khá rộng do mái chảy dài. Ngoài hiên là hệ thống cột đá hình hộp chữ nhật được mài nhẵn, trên đá khắc những vế câu đối ca ngợi công đức nhà Phật và cảnh đẹp của chùa cùng những trang trí hình long, ly, quy, phượng:
Vạn thuỷ toàn lâm bát địa quảng khai chung tú khí
Bảo sơn củng phục tháp đài quang hiển chấn đông phong”.
Dịch nghĩa:
Muôn nước đổ về, bát đất mở to hun khí đẹp
Bảo sơn chầu phục, tháp đài sáng rõ dậy gió đông.

 
 Hoành phi, câu đối trong chùa

Về nội thất, các bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu “thượng chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ”. Ở đây, các con rường được chạm nổi hình lá ba chẽ, nét chạm sâu và nổi khối tạo cảm giác khoẻ, vững chãi cho kiến trúc. Trên những bức cốn, hình rồng cuốn thuỷ, rồng ổ, hổ phù cùng cây cỏ… được thể hiện với hình thức chạm nổi, phần nào đã làm giảm bớt vẻ khô cứng của khối kiến trúc gỗ.
Hậu cung gồm 3 gian, được làm theo kiểu “chồng rường, giá chiêng”. Trên các xà thượng và hạ đều treo hệ thống y môn, cửa võng, hoành phi… góp phần cho ngôi chùa thêm vẻ lộng lẫy.


 
 Tam quan

Hệ thống tượng tròn trong di tích gồm hai loại khác nhau: tượng Phật và tượng Mẫu, được làm bằng chất liệu gỗ và đồng. Niên đại tạo tác cũng không đồng nhất, một số ít ra đời vào cuối thời Lê, còn đa phần là những tác phẩm thuộc thời Nguyễn. Ở vị trí trang trọng nhất là bộ Tam thế, phía dưới là tượng Phật Thế tôn với hai bên là A-nan và Ca-diếp. Cuối cùng là toà Cửu Long với đức Phật Thích Ca sơ sinh bằng đồng đứng giữa.






 Tượng có kích thước nhỏ, một chân bước lên phía trước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất, thể hiện câu nói khẳng định vị trí tối thượng của nhà Phật: “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn” (Trên trời dưới đất, chỉ có ta là có quyền lực cao nhất).

 
Ban thờ Đức Chuẩn đề vương bồ tát
Ban thờ Đức chúa Ông

Ban thờ Đức Địa tạng vương bồ tát

 Có thể thấy, trong các pho tượng của chùa, nổi bật hơn cả vẫn là bộ Tam thế gồm ba pho tượng tương đối giống nhau cả về kích thước và hình thức thể hiện. Những pho tượng này mang nhiều nét dân gian với cụm tóc kết hình ốc theo hàng ngang, mặt tượng có tính khái quát tượng trưng với đôi mắt khép hờ, sống mũi thẳng, nhân trung sâu. Tai tượng lớn, ngực nở và trên thân phủ áo hai lớp với những nếp chảy mềm mại, mang tính nghệ thuật cao.



Nhìn chung, trên kiến trúc chùa Bát Tháp đã thấy rõ cách tạo khối chắc khoẻ, gây được cảm giác mạnh mẽ đối với con người. Bên cạnh đó, những đầu đao cong vút cùng các đề tài trang trí điểm xuyết lại tạo nên sự nhẹ nhàng, bay bổng cho kiến trúc. Bố cục chung của toàn bộ ngôi chùa cũng rất chặt chẽ, gắn kết và tôn đẩy lẫn nhau, đưa khách tham quan đi từ sự choáng ngợp, ngỡ ngàng ban đầu đến sự yên tĩnh, thanh u của khu chùa chính. Số lượng tượng tròn ở đây tuy không nhiều, kích thước vừa phải, nhưng có giá trị thẩm mỹ cao. Là những pho tượng mang ý nghĩa tôn giáo, nghĩa là phải tuân theo những quy định ngặt nghèo của lý thuyết cổ xưa, song bằng sức lao động sáng tạo, nghệ nhân xưa đã tạo nên nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị theo dòng điêu khắc dân gian truyền thống.
Ngoài ra, di tích chùa Bát Tháp còn giữ gìn được khá nhiều di vật có giá trị như: đôi hạc đồng, bát hương, chuông đồng “Bát Tháp tự chung” đúc năm Gia Long thứ 2 (1803)… góp phần làm cho di tích thêm sống động, phong phú.


 

Chùa Bát Tháp là vật chứng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc tìm hiểu lịch sử của  Hà Nội. Chùa còn là một di tích kiến trúc nghệ thuật bề thế, hài hoà và có những vẻ đẹp ít thấy trong các di tích tôn giáo ở Hà Nội cũng như cả nước.


6. CHÙA THẦN QUANG - Ba Đình


 Chùa tọa lạc: Số 44, phố Ngũ Xã, quận Ba Đình, Hà Nội. Chùa Thần Quang thường được gọi là chùa Ngũ Xã. Chùa Thần Quang được xây dựng từ thế kỷ 18 thời hậu Lê (1428 – 1788 ) . Xưa chùa thuộc thôn Ngũ Xã , tổng Thuận Thành , huyện Vĩnh Thuận , thành Thăng Long. thuộc phố Ngũ Xã , phường Trúc Bạch , quận Ba Đình – Hà Nội .
 
chua than quang


Chùa thờ Phật và thờ Thiền sư Minh Không, tục truyền Thiền sư Minh Không là vị tổ nghề đúc đồng. Chùa Thần Quang do những người thợ thủ công thuộc 5 xã huyện Siêu Loại tỉnh Bắc Ninh cùng kéo nhau ra Kinh đô Thăng Long mở lò đúc đồng , xây dựng đình thờ ông tổ nghề đúc đồng và dựng chùa phục vụ cho tín ngưỡng . Chùa được xây dựng sau đình . Sau đó chùa đã bị hỏa hoạn , năm 1949 nhân dân xây dựng lại đến năm 1951 mới hoàn thành … Năm 1952, Hòa thượng Thích Mật Đắc cho xây dựng lại ngôi chùa hoàn toàn theo kiến trúc hiện đại.(Đoạn này không rõ. Không lẽ năm 1951 mới xây xong thì 1952 đập đi xây lại hay sao? Hay là năm 1952 xây thêm chùa mới theo kiến trúc hiện đại?)

chua than quang ha noi


Hiện chùa còn lưu giữ pho tượng Đức Phật A Di Đà bằng đồng ở chánh điện là pho tượng đồng cổ lớn nhất Việt Nam, được đúc từ năm 1949 – 1952, cao 3,95m; nặng 10 tấn, và tòa sen 96 cánh, cao 1,45m; nặng 3,9 tấn.Đây là một pho tượng có giá trị mỹ thuật cao của nghề thủ công đúc đồng Ngũ xã .

chua than quang


chua than quang ha noi






Tam bảo

Ban thờ Đức Ông

Đức Hộ Pháp 
Ban thờ Đức Thánh Hiền Ban thờ Đức Hộ Pháp 

 
 
Ban thờ Gia tiên
   
   
  
Tượng Đức Phật A Di Đà
  
  
   
Đức Hộ Pháp
   

Ban thờ Đức Địa Tạng

   
  
 


7. CHÙA HOÈ NHAI-Ba Đình

 Chùa Hoè Nhai tên chữ là Hồng Phúc tự ở số 19 phố Hàng Than, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, Hà Nội. Đây là ngôi chùa cổ, tương truyền có từ đời nhà Lý.
Chùa Hòe Nhai trải qua nhiều lần sửa chữa lớn vào các năm 1687, 1899 và 1952. Phạm vi chùa trước kia khá lớn, sang thời Pháp thuộc bị thu lại như hiện nay.



Chùa được xây dựng theo kiểu chữ công. Phía trước là chính điện, phía sau là nhà tổ và tăng phòng, xung quanh là hành lang. Thượng điện còn giữ được nhiều bức chạm hình tứ linh và các cửa võng sơn son thếp vàng. Chùa có nhiều tượng Phật được bày làm 6 lớp. Tổng số tượng ở chùa Hòe Nhai gồm 68 pho, được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như đồng hun, gỗ quý, đất nện, được sơn son thếp vàng. Chùa có một quả chuông mang niên hiệu Long Đức 3 (1734). Sân chùa có hai ngọn tháp cao 3 tầng. Trong chùa còn có đến 28 tấm bia, cổ hơn cả là bia dựng năm Chính Hoà 24 (1703) ghi rõ vị trí chùa ở phường Hoè Nhai, tại Đông Bộ Đầu tức Bến Đông. Chính nhờ bia này mà giới sử học ngày nay xác định được vị trí trận chiến thắng ngày 29 tháng 1 năm 1258 của quân nhà Trần mà sử chép là chiến thắng Đông Bộ Đầu, đuổi quân Nguyên, giải phóng kinh thành có vị trí ở khu vực gần chùa Hoè Nhai ngày nay.


Trong chùa có nhiều tượng cổ, cổ nhất là tượng Cửu Long (Thích Ca sơ sinh). Đặc sắc nhất pho tượng kép hình một vị vua quỳ để tượng Phật trên lưng. Tương truyền sau khi vua Lê Hy Tông đuổi nhiều hòa thượng lên núi, sư Tông Viễn đã thức tỉnh vua, nên vua Lê Hy Tông cho làm pho tượng này thể hiện sự sám hối của mình.

 8. CHÙA LÝ QUỐC SƯ- Hoàn Kiếm

Đền Lý Quốc Sư là một ngôi đền cổ được xây cất từ năm 1131 thời nhà Lý và gọi là Lý Quốc Sư tự (李國師寺). Hiện nằm ở số 50 phố Lý Quốc Sư,  quân Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Nơi đây thờ thiềnNguyễn Minh Không người đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông. Ông được phong làm quốc sư và được triều đình phong ấp ở làng Tiên Thị (nay là Điềm Xá) huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Khi ông mất, dân làng lập đền thờ gọi là "Lý Quốc Sư Tự". Năm 1932, thiền sư Nguyễn Văn Định trụ trì đã bài trí thêm tượng Phật nên đền được gọi là chùa Lý Quốc Sư.




Theo truyền thuyết ông giỏi pháp thuật và còn là tổ nghề đúc đồng. Đền còn tấm bia do Lê Đình Diên soạn năm Tự Đức 1855 nhân dịp trùng tu. Những ngày đầu toàn quốc chống Pháp, đền đã bị hủy hoại, năm 1954 mới trùng tu như ngày nay. Đền có nhiều tượng nghệ thuật truyền thần với các nhân vật lịch sử, phong cách điêu khắc thời Lê như nhóm tượng gỗ phủ sơn 4 tượng công chúa thời nhà Lý, 4 quan nhà Lý với phẩm phục triều đình, mỗi người một dáng vẻ thần thái khác nhau.

 

Đáng chú ý có 4 chân dung phù điêu đá tô màu: Từ Đạo Hạnh trong bia cao 1,3m, Đức Thánh Mẫu ngồi chống chân trên đài sen như tượng tròn dựa vào bia cao 82 cm, Đức Thánh phụ cao 93 cm đội mũ vuông, có dải trùm vai và sư Giác Hải đầu búi tó, râu ngắn cao 97 cm. Đây là những tượng đá cổ thế kỷ 16 mô ta theo hình thức tự nhiên, gần với người thực. Chùa còn có một quả chuông Bảo Tháp tự chung có niên đại Ất Hợi nhưng chưa rõ đời vua. Năm 1995, chùa được  công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

Chùa Liên Phái

 
9- CHÙA QUÁN SỨ:

Chùa Quán Sứ (舘使寺) là một ngôi chùa ở số 73 phố Quán Sứ, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Trước đây, địa phận này thuộc thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương.

 

Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15. Nguyên xưa ở phường Cổ Vũ chưa có chùa, chỉ có mấy gian nhà tranh ở phía Nam, dân làng dùng làm chỗ tế thần cầu yên gọi là xóm An Tập. Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vào thời vua Lê Thế Tông, các nước Chiêm Thành, Ai Lao thường cử sứ giả sang triều cống Việt Nam. Nhà vua cho dựng một tòa nhà gọi là Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến Thăng Long. Vì sứ thần các nước này đều sùng đạo Phật nên lại dựng thêm một ngôi chùa cũng nằm trong khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ. Thời gian đã xóa đi dấu khu nhà Quán Sứ nhưng ngôi chùa thì vẫn tồn tại.




Theo bài văn của Tiến sĩ Lê Duy Trung khắc trên tấm bia dựng năm 1855, vào đầu đời Gia Long (1802-1819) chùa gần đồn Hậu Quân. Đến năm 1822, chùa được sửa sang để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn này. Khi quân ở đồn này rút đi, chùa được trả lại cho dân làng. Nhà sư Thanh Phương trụ trì ở chùa lúc đó mới làm thêm các hành lang, tô tượng, đúc chuông. Tiền đường của chùa thờ Phật, còn hậu đường thờ vị quốc sư Minh Không thời Nhà Lý.
Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt.

Tam quan của chùa có ba tầng mái, nằm giữa là lầu chuông. Qua tam quan là một sân rộng lát gạch, bước lên 11 bậc thềm là tới chánh điện cao, hình vuông, xung quanh có hành lang. Điện Phật được bài trí trang nghiêm, các pho tượng đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía trong cùng, thờ ba vị Tam thế Phật trên bậc cao nhất. Bậc kế tiếp thờ tượng Phật A-di-đà ở giữa, hai bên có tượng Quan Thế ÂmĐại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa thờ Phật Thích ca, hai bên là A-nan-đàCa-diếp. Bậc thấp nhất, ở ngoài cùng có tòa Cửu Long đứng giữa tượng Quan Âm và Địa Tạng. Gian bên phải chánh điện thờ Lý Quốc Sư (tức Thiền sư Minh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức Ông và tượng Châu Sương, Quan Bình.

Hai bên và đằng sau sân là các dãy nhà dùng làm thư viện, giảng đường, nhà khách và tăng phòng.
Chùa Quán Sứ có lẽ là một trong rất ít ngôi chùa ở Việt Nam mà tên chùa cũng như nhiều câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ. Phải chăng vì ngôi chùa được xây dựng lại vào giữa thế kỷ 20 và vì chùa đã trở thành trụ sở trung tâm của Tổng hội Phật giáo Bắc Việt, nay là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngôi Quốc tự chung của các thiện nam tín nữ trên đất Việt. Phân viện Nghiên cứu Phật học thuộc Giáo hội và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam) cũng đặt ở đây.
Nửa thế kỷ nay, chùa Quán Sứ đã chứng kiến nhiều hoạt động quan trọng của Phật giáo Việt Nam, trong đó có sự thống nhất tổ chức Phật giáo trong nước và sự hòa nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Chính nơi đây vào ngày 13 tháng 5 năm 1951 (mồng 8 tháng Tư năm Tân Mão) lần đầu tiên lá cờ Phật giáo thế giới do Thượng tọa Tố Liên mang về từ Colombo đã xuất hiện trên bầu trời Hà Nội.



  10 . CHÙA CẦU ĐÔNG - Hoàn Kiếm

Chùa Cầu Đông còn có tên là chùa Đông Môn, xưa thuộc tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương. Tương truyền, chùa được dựng vào đời nhà Lý (1010-1225) và trải qua nhiều lần trùng tu. Ngày xưa, ở đây có “Cầu Đông” - chiếc cầu đá bắc qua sông Tô Lịch và “Cửa Đông” - cửa tường thành phía Đông của Hoàng thành Thăng Long nên người xưa đặt tên cho chùa là Cầu Đông để dễ dàng phân biệt với các ngôi chùa khác.

 Cổng tam quan chùa Cầu Đông


Hiện chùa còn lưu giữ được nhiều tấm bia cổ, trong đó, bia dựng năm Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) có ghi lại nhiều việc chính như mua thêm đất, mở rộng khuôn viên và mở mang chùa.
Ngày nay chùa  tọa lạc trên phố Hàng Đường (phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) . Đặc biệt hơn cả, đây là nơi duy nhất ở Hà Nội thờ Thái sư Trần Thủ Độ, vị khai quốc triều Trần (1225-1400).


Cổng tam quan chùa Cầu Đông. 


Gian chính điện chùa Cầu Đông.

Tượng Thái sư Trần Thủ Độ và vợ là bà Trần Thị Dung. 

Chùa Cầu Đông còn có một ban thờ và tượng Thái sư Trần Thủ Độ cùng vợ ông là bà Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ vốn là nhà chính trị xuất sắc, có công sáng lập và củng cố vương triều Trần. Năm 1258, khi quân Nguyên Mông xâm lược nước Đại Việt lần thứ nhất, mặc dù đã ngoài 60 nhưng ông vẫn khảng khái trả lời vua Trần Thái Tông: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!”. Chỉ 10 ngày sau đó, quân dân nhà Trần phản công đã đánh tan giặc Mông Cổ. Cũng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất ấy, bà Trần Thị Dung đã có công chỉ huy hoàng tộc rút khỏi kinh thành Thăng Long, sau đó lại lo thu nhặt sắt thép, động viên các hiệp thợ ngày đêm rèn đúc vũ khí cung cấp cho quân Trần. Lương thực, thực phẩm để quân đội ăn no đánh giặc cũng do bà lo liệu. Với công lao to lớn đó, vua Trần đã sắc phong cho bà là Linh Từ Quốc Mẫu.


Ba pho tượng Tam Thế của chùa Cầu Đông.

So với những ngôi chùa cổ khác ở Hà Nội, chùa Cầu Đông được biết đến là ngôi chùa còn lưu giữ được 60 pho tượng Phật cổ có giá trị. Cổ vật quan trọng nhất của chùa là ba pho tượng Tam Thế, thể hiện ở ba thời: quá khứ, hiện tại và tương lai. Cả ba pho đều được tạo tác vào nửa đầu thế kỷ XVIII. Đây là ba pho tượng đẹp, quý hiếm, đạt giá trị nghệ thuật cao, được thể hiện các nét trang trí như vòng đeo cổ, khuôn mặt nữ, mang đầy đủ quy chuẩn của tượng Phật thế kỷ XVII - XVIII ở Việt Nam. Trong thập điện còn có pho tượng Tuyết Sơn được điêu khắc đẹp, tinh tế. Đây là một pho tượng quý hiếm trong nghệ thuật tạo tác của người Việt.


Dãy tượng vua Thập điện.

Một số họa tiết trong kiến trúc chùa Cầu Đông.



11- CHÙA LIÊN PHÁI- Hai Bà Trưng

 Chùa Liên Phái là một ngôi chùa ở thủ đô Hà Nội, Việt Nam. Chùa nằm trong ngõ Liên Phái, phố Bạch Mai, thuộc quận Hai Bà Trưng. Liên Phái là tên của chùa từ năm 1840, trước đó chùa có tên là Liên Hoa rồi Liên Tông.Theo kể lại, chùa Liên Hoa được dựng lên sau khi Trịnh Thập (có tài liệu ghi là Trịnh Hợp) (sinh năm 1696, mất năm 1733) - là cháu nội Chúa Trịnh Căn và là con rể vua Lê Hy Tông (Trịnh Thập lấy người công chúa thứ 4) phát hiện một ngó sen sau khi đào đất ở gò cao sau phủ (phường Hồng Mai, sau đổi tên thành Bạch Mai)) để xây bể cạn.


 



Trịnh Thập cho rằng đây là dấu hiệu của Phật và tin rằng mình có duyên với đạo. Vì vậy, Trịnh Thập quyết định chuyển phủ của mình thành chùa Liên Hoa, đồng thời theo đạo Phật, trở thành Lân Giác Thượng Sỹ trụ trì trong chính ngôi chùa này. Theo tấm bia đá khắc năm Tự Đức thứ 10 (1857) hiện còn ở chùa, chùa được xây dựng vào năm Bảo Thái thứ 7 (tức 1726). Năm 1733, Trịnh Thập (lúc đó mới 37 tuổi) mất và được chôn cất trong Tháp Cứu Sinh xây ở chính nơi tìm thấy ngó sen. Sau đó, chùa được đổi tên thành chùa Liên Tông. Đến năm 1840, chùa được đổi tên thành Liên Phái như hiện nay vì kiêng huý vua Thiệu Trị


Chùa Quán Sứ



12. CHÙA KIM LIÊN -Tây Hồ

 Chùa Kim Liên (Kim Liên tự) là ngôi chùa nằm trên một doi đất bằng phẳng trong thôn Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ), thành phố Hà Nội. Trong cuốn Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995 do Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương xuất bản tại Hà Nội năm 1989 đánh giá Chùa Kim Liên là một trong 10 di tích kiến trúc cổ đặc sắc nhất Việt Nam[1].

 

Vào thời Lý, vua Lý Thần Tông (1128-1138) cho lập ở vị trí này một cung điện mang tên cung Từ Hoa để công chúa Từ Hoa cùng các cung nữ trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải nằm bên trong khu vực có tên là Trại Tằm Tang. Khi công chúa qua đời, trên nền cũ của cung điện dựng lên một ngôi chùa.
Sang thời Trần, trại Tằm Tang đổi thành phường Tích Liên và chùa được mang tên Đống Long. Đến thời Lê chùa mang tên Đại Bi. Tấm bia trong chùa dựng thời vua Lê Nhân Tông ghi rõ: "năm Thái Hòa thứ nhất (tức năm 1443) dựng chùa, gọi là chùa Đại Bi".
Năm 1771 đời Lê Cảnh Hưng chùa được trùng tu, sửa chữa lớn và mang tên Kim Liên Tự (chùa Kim Liên).



Năm 1792, đời vua Quang Trung, chùa được xây dụng lớn, về diện mạo cơ bản giống như hiện nay. Năm 1793 cũng đời vua Quang Trung chùa đã hoàn tất về diện mạo.

Từ xa nhìn lại tam quan của chùa Kim Liên toát lên một vẻ đẹp thầm kín và kiêu hãnh với kiến trúc gỗ độc đáo: một hàng bốn cột gỗ tròn, bên trên có hệ con sơn đua rộng ra phía tầng dưới, thu hẹp dần ở tầng tên đỡ bộ vì mái với những tàu đao vút cong. Đôi cột cái ở giữa to cao nâng dải mái vươn lên tạo thành cổng lớn, cao rộng hơn hai cổng hai bên. Kiến trúc tam quan của chùa còn có những bức chạm nổi trên mặt gỗ với hình rồng, hình hoa lá tinh xảo, uyển chuyển.




Phong cách kiến trúc của chùa Kim Liên, có lẽ do ảnh hưởng từ nguồn cội là một vị trí cung điện và thờ một tôn thất nhà Lý, nên đượm dáng vẻ cung đình. Bố cục của chùa bao gồm một trục đối xứng từ tam quan đến nhà Tổ. Từ tam quan đi vào một khoảng sân dẫn vào ba nếp chùa xếp song song theo hình chữ "tam" (三), thứ tự từ chùa Hạ, chùa Trung quay mặt về hướng Tây đến chùa Thượng quay mặt về phía Đông. Ba lớp chùa được liên kết với nhau bằng tường gạch để trần có trổ cửa sổ tròn lồng chữ nhà Phật.
Mái chùa Kim Liên lợp ngói với cấu trúc hai tầng theo kiểu chồng diêm. Mỗi nếp 8 mái, có tám tàu đao hình rồng uốn cong. Chân cột kê trên đá tảng chạm hình hoa sen cách điệu.

Chùa Kim Liên


13.  CHÙA BÀ ĐANH - Tây Hồ


Chùa Bà Đanh là một ngôi chùa lâu đời có thật ở tây nam Hà Nội. Khi mới thành lập chùa rất đông đúc nhưng sau khi bị người Pháp di dời từ vị trí cũ (trường Chu Văn An-Hà Nội) thì trở nên vắng vẻ ít khách chiêm bái (vắng như chùa Bà Đanh).
 Chùa Bà Đanh được xây dựng từ đời vua Lê Thánh Tông. Theo sách Tây Hồ chí, vua Lê Thánh Tông đã cho xây dựng một thiền viện (vừa là chùa, vừa là trung tâm nghiên cứu) ở gò Phượng Chủy bên bờ nam hồ Tây để cho người Chăm hành đạo gọi là thiền viện Châu Lâm.Chùa Bà Đanh là tên gọi Nôm của chùa Châu Lâm. Chùa này được cất lên cùng với viện Châu Lâm vào thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ở làng Thụy Chương, Hà Nội. Vì để tránh húy miếu vua Thiệu Trị nên sau này Thụy Chương phải đổi thành Thụy Khuê. tức ở quận Tây Hồ. Vào thời đó, viện Châu Lâm được dùng làm chỗ ở cho những người Chiêm Thành được đưa về sau các cuộc chiến tranh, còn chùa Châu Lâm là nơi dành cho họ cúng lễ (vì hầu hết những người này đều theo đạo Phật).

Sau khi người Pháp chiếm đóng Hà Nội, họ đã chiếm khu vực đất này để lập trường Trung học bảo hộ (1907) - nay là trụ sở của trường trung học Chu Văn An, vì thế chùa Châu Lâm phải dời về phía Tây Nam, ở cuối làng và đổi sang tên mới là chùa Phúc Lâm.

Dấu tích của chùa Phúc Lâm hiện vẫn còn giữ lại được tấm bia ghi rõ: Bà Đanh tự (chùa Bà Đanh). Theo tục truyền, Bà Đanh là một người đàn bà đã có công dựng lên chùa này, vì thế mà ngôi chùa mang tên bà. Từ khi viện Châu Lâm bị bãi bỏ, số người đến lễ bái chùa này ngày một ít đi. Chính vì thế mà không khí ngôi chùa này ngày càng trở nên vắng vẻ. Trong bài "Tụng Tây Hồ phú" của Nguyễn Huy Lượng có ghi lại cảnh vắng của chùa này:

Dấu bố cái rêu in nền phủ
Cảnh Bà Đanh hóa khép cửa chùa.

Cảnh vắng vẻ, thiếu người đến lễ bái của chùa Bà Đanh dần dần đã trở thành một hình ảnh để so sánh với bất cứ một cảnh vắng vẻ nào. “Vắng như chùa Bà Đanh” là một sự vắng vẻ yên tĩnh gợi nên vẻ lạnh lẽo, cô quạnh, thiếu hơi ấm của con người. Ca dao Hà Nội có câu:

Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh.



 


 




Đến năm Thành Thái thứ 4 (1892), chùa một lần nữa lại được dời về ngõ 199 phố Thụy Khuê, hợp nhất với chùa Phúc Lâm thành chùa “Phúc Châu Tự”. Trên đại tự của chùa có tấm biển đề “Phúc Châu Tự”.Nay chùa thuộc số nhà 199B phố Thụy Khuê, chung với chùa Châu Lâm.
Là 1 trong 4 chùa nổi tiếng của Hà Nội xưa: chùa Bà Đá ở Nhà Thờ, chùa Bà Nành và Bà Ngô ở Nguyễn Khuyến, Trần Quý Cáp, chùa Bà Đanh ở Thụy Khuê (Wikimapia)


B. CÁC CHÙA Ở MIỀN BẮC

  14. CHÙA TAM THANH -Lạng Sơn


Chùa Tam Thanh nằm trong động núi đá (nên còn được gọi tên khác là Động Tam Thanh) thuộc địa phận phường Tam Thanh Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Theo sử sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì chùa Tam Thanh có từ thời nhà Lê, thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, Châu Thoát Lãng.




Chùa Tam Thanh có một tượng phật A Di Đà màu trắng với nét mềm mại, uyển chuyển được tạc nổi vào vách đá từ thế kỷ 15. Pho tượng này mang phong cách nghệ thuật thời Lê - Mạc (thế kỷ 16-17) tạc theo thế đứng trong hình một lá đề. Tượng cao 202 cm, rộng 65 cm, mặc áo cà sa buông chùm xuống tận gót, hai tay chỉ xuống đất trong thế ấn cam lộ[1].

Bên trong động Tam Thanh

Ngoài ra, Chùa còn có hồ Âm Ti với làn nước trong xanh bốn mùa với muôn trùng nhũ đá thiên tạo từ ngàn năm rất đẹp. Tam Thanh là quần thể 3 động Nhất Thanh, Nhị Thanh, Tam Thanh nằm trong Chùa Tam Thanh. Ðộng Tam Thanh nằm trong một dãy núi có hình đàn voi phủ phục trên mặt cỏ xanh. Hang động Tam Thanh ở lưng chừng núi. Cửa hang nhìn về hướng đông cao chừng 8m có lối lên là 30 bậc đá đục vào sườn núi, có nhiều cây cối um tùm che khuất ánh nắng. Vách động bên phải có khắc bài thơ của Ngô Thì Sĩ (1726-1780) khi ông làm đốc trấn Lạng Sơn.
Tam Thanh được mệnh danh là "Đệ nhất bát cảnh Xứ Lạng" (gồm 4 điểm là: động Nhị Thanh, động Tam Thanh, thành nhà MạcNàng Tô Thị


15. CHÙA QUỲNH LÂM-QuảngYên

Chùa Quỳnh Lâm nằm trên đồi trong dãy núi vòng cung Đồng Triều, xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Chùa được khởi dựng từ thời Lý.
Chùa Quỳnh Lâm nằm trên đồi trong dãy núi vòng cung Đồng Triều, xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Yên (nay là Quảng Ninh. Chùa được khởi dựng từ thời Lý. Chùa từng là nơi trụ trì của nhiều vị Thiền sư danh tiếng như Quốc sư Nguyễn Minh Không (đời Vua Lý Thần Tông), Thiền sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương, vị tổ thứ 2 của phái Thiền Trúc Lâm (đời Vua Trần Minh Tông), Thiền sư Chân Nguyên (thời Hậu Lê)… và trở thành một trung tâm Phật giáo của cả nước từ lúc Thiền sư Pháp Loa lập Viện Quỳnh Lâm vào năm 1317.



Ở sân trước chùa có nhiều tháp cổ, trong đó có tháp Tuệ Quang là tháp mộ Thiền sư Chân Nguyên dựng năm 1726. Đặc biệt, chùa còn giữ một tấm bia thời Lý cao 2,43m, ngang 1,54m khắc chữ hai mặt và một số di vật bằng đá, đất nung cổ. Chùa hiện được Đại đức Thích Đạo Quang tổ chức trùng tu mở rộng. Năm 1995, chùa đã xây nhà bia và nhà thờ Trúc Lâm Tam Tổ. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.



Trên cở sở chùa Quỳnh Lâm cũ, năm 1316 Pháp Pháp Loa cho xây dựng và thành lập viện Quỳnh Lâm với một kiến trúc đồ sộ và hoàn chỉnh vào năm 1329. Quỳnh Lâm trở thành “Đệ nhất danh lam cổ tích của nước An Nam”. Đây là nơi trung tâm truyền kinh giảng đạo và đào tạo hàng ngũ sư sãi cho đạo Phất, nhiều hội lớn có tiếng trong sử sách được tổ chức tại đây như hội” Thiên Phật bảy ngày, bảy đêm” (1352)…



Hiện ở sân trước chùa có nhiều tháp cổ, trong đó có tháp Tuệ Quang là tháp mộ Thiền sư Chân Nguyên dựng năm 1726. Đặc biệt, chùa còn giữ một tấm bia thời Lý cao 2,43m, ngang 1,54m khắc chữ hai mặt và một số di vật bằng đá, đất nung cổ. Chùa hiện được Đại đức Thích Đạo Quang tổ chức trùng tu mở rộng. Năm 1995, chùa đã xây nhà bia và nhà thờ Trúc Lâm Tam Tổ. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Lễ hội chùa Quỳnh Lâm diễn ra từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 tháng 2 âm lịch, nhưng không khí lễ hội diễn ra trong suốt 3 tháng xuân với lòng thành kính của tất cả các tín đồ Phật tử gần xa tín tâm về đây dâng hương lễ Phật.

16. CÁC CHÙA TRÊN NÚI YÊN TỬ - Quảng  Yên

Quần thể di tích Yên Tử có 11 chùa, rất nhiều am, tháp trải từ Bí Thượng (chân Dốc Ðỏ) đến chùa Ðồng. Ðường lên Yên Tử phải qua nhiều dốc và suối. Núi Yên Tử (安子山, 1.068 m) là ngọn núi cao trong dãy núi Đông Triều vùng đông bắc Việt Nam.

Một góc Thiền viện Trúc Lâm
Tam quan Thiền viện Trúc Lâm (mặt sau)
Bàn thờ Trúc Lâm tam tổ Thiền viện Trúc Lâm


Núi thuộc xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Yên nay là Quảng Ninh. Vốn là là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh "đất tổ Phật giáo Việt Nam". Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên gọi là Bạch Vân sơn.Tổng chiều dài đường bộ để lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) là khoảng 6000m với 6 giờ đi bộ liên tục qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi... Hành trình lên Yên Tử ngày nay sẽ không vất vả như xưa nữa vì hệ thống cáp treo 1 lên gần Hoa Yên đã hoàn thành năm 2002 và hệ thống cáp treo 2 lên cổng trời (khu vực đỉnh Yên Tử) đã được đưa vào sử dụng từ mùa lễ hội 2008.

Chùa Đồng 

Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam, đó là dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (調御覺皇陳仁宗, 1258-1308). Ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo. Sau khi ông qua đời, người kế tục sự nghiệp là Pháp Loa Đồng Kiên Cương (法螺同堅剛, 1284-1330), vị tổ thứ hai của dòng Trúc Lâm. Trong 19 năm tu hành, ông đã soạn ra bộ sách Thạch thất mị ngữ (石室寐語) và cho xây dựng 800 ngôi chùa, am, tháp lớn nhỏ trong nước với hàng nghìn pho tượng có giá trị, trong đó có những chùa nổi tiếng như Chùa Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên ở Đông Triều... Tại trung tâm truyền giáo của Pháp Loa còn có Huyền Quang Lý Đạo Tái (玄光李道載, 1254-1334), vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm.




Khu vực Yên Tử bao gồm một số địa điểm và kiến trúc Phật giáo chính như:

Chùa Bí Thượng

Chùa Bí Thượng xưa được khởi dựng từ thời Hậu Lê, trên mặt nền kiến trúc hình chữ Nhất, từng được trùng tu, tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Trong thời kỳ 1945- 1954, chùa bị phá hủy hoàn toàn. Năm 1993, chùa được dựng lại trên mặt nền kiến trúc hình chữ Đinh, quay hướng Tây Nam, hệ khung bằng bê tông, tường xây gạch, mái lợp ngói Tây. Tiền đường gồm ba gian, hai chái nối với ba gian hậu cung. Hai dãy tả vu, hữu vu mỗi bên 9 gian, kiến trúc đơn giản, thờ Thập bát La Hán. Nhà tổ ở phía sau chùa chính, được dựng trên mặt nền hình chữ Nhất, gồm năm gian, mái lợp ngói mũi hài, hai đầu hồi bít đốc, vì kèo nóc kiểu giá chiêng chồng rường con nhị.


Chùa Suối Tắm

Được dựng dưới chân núi, sát bên bờ suối Tắm, bố cục mặt bằng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm ba gian hai chái bái đường và một gian hậu cung, mái lợp ngói mũi hài, có đầu đao ở bốn góc mái trang trí hình mây cuộn và rồng, trên bờ nóc trang trí hình rồng. Kiến trúc nhà tổ được bố trí trên mặt nền hình chữ Nhất, gồm ba gian hai chái, mái lợp ngói mũi hài, đầu đao bốn mái. Hai dãy Tả vu, Hữu vu mỗi bên có mái lợp ngói mũi hài, đầu đao ở bốn góc mái trang trí hoa văn mây xoắn.

Chùa Cầm Thực

Nằm về bên trái con đường vào Yên Tử. Chùa cũ được dựng từ thời Trần, bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm 6 gian, nay chỉ còn nền móng.
 
 Chùa Cầm Thực

 Dựa trên những dấu tích còn lại, chùa (mới) đã được xây dựng lại vào năm 1993, gồm các hạng mục: chùa chính, nhà Mẫu và các công trình phụ trợ. Chùa chính có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái, mái lợp ngói vẩy. Nhà Mẫu có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm ba gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói vẩy.



Chùa Lân

Chùa Lân xưa được dựng từ thời Trần. Đây vốn là một ngôi chùa lớn, với những công trình đồ sộ nhưng đã bị hủy hoại theo thời gian, nay chỉ còn lại một vài dấu tích trên mặt đất. Năm 2002,

Cây đại cổ thụ Thiền viện Trúc Lâm (chùa Lân)

Toàn cảnh Thiền viện Trúc Lâm (chùa Lân)

 Chùa Lân (Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử) đã được xây dựng lại, gồm các hạng mục chính điện, nhà tổ, lầu trống, lầu chuông, tam quan, nhà trưng bày, nhà khách, nhà tăng, nhà ni... Chính điện được xây theo khối vuông, chồng diêm hai tầng tám mái, lợp ngói vẩy. Nhà tổ ở phía sau chính điện, cao hơn tòa chính điện.

Chùa Giải Oan

Chùa Giải Oan xưa được dựng vào thời Trần. Trải qua thời gian và thăng trầm của lịch sử, chùa đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1994, nhân dân công đức xây dựng lại chùa, gồm các hạng mục: chùa chính, nhà Mẫu, nhà tổ, nhà tu lễ, nhà bếp và một số công trình khác.

Đường lên chùa Giải Oan


Qua suối Giải Oan

Chùa chính được dựng trên mặt nền kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái tiền đường và một gian hậu cung. Nhà Mẫu nằm bên phải chùa chính, dựng trên mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái bái đường và một gian hậu cung. Nhà tổ nằm bên trái chùa chính, dựng trên mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm ba gian, mái lợp ngói vẩy, đầu kìm nóc đắp nổi hình rồng.
Từ chùa Giải Oan, chúng ta đi sang các chùa khác.Tiếp đó tới chùa Hoa Yên (các tên gọi khác: chùa Cả, chùa Phù Vân, chùa Vân Yên) nằm ở độ cao 543 m với hàng cây tùng cổ tương truyền được trồng từ khi vua Trần Nhân Tông lên tu hành trên Yên Tử. Phía trên độ cao 700 m là chùa Vân Tiêu lẩn khuất trong mây bên triền núi. Sau điểm này là chùa Đồng, tọa lạc trên đỉnh Yên Tử cao 1.068 m. Chùa được khởi dựng vào thời nhà Hậu Lê với tên gọi Thiên Trúc tự (天竺寺). Đầu năm 2007, chùa Đồng mới được đúc hoàn toàn bằng đồng nguyên chất (cao 3 m, rộng 12 m², nặng 60 tấn) đã được đưa lên đỉnh Yên Tử.

Cụm tháp Hòn Ngọc

Cụm tháp Hòn Ngọc nằm trên một gò đất khá rộng, bằng phẳng, gồm ba tháp đá và một tháp gạch. Các tháp đá được làm bằng đá gạo, một tầng, do các phiến đá được tạo mộng ghép lại với nhau. Bệ tháp làm theo kiểu thót ở giữa, giật cấp ra hai bên. Một mặt thân tháp có cửa vòm, bên trong đặt bát hương và bài vị. Mái tháp đua ra so với thân tháp, bốn diềm mái cong. Trên đỉnh tháp đặt một bình nước cam lồ.

Vườn tháp Huệ Quang (khu tháp Tổ)

Vườn tháp Huệ Quang nay chỉ còn 64 ngọn tháp và mộ, trong đó có 40 tháp mới được trùng tu năm 2002, 11 tháp đá, 13 tháp gạch, một số ngôi tháp đã bị đổ chỉ còn lại dấu tích.
 

Toàn cảnh tháp Huê Quang

Tháp Tổ Trần Nhân Tông hay còn gọi là Tháp Huệ Quang mặt bằng rộng khoảng 180m2, cao 10m, với 6 tầng, được ghép từ các phiến đá xanh, đặt ở vị trí trung tâm của vườn tháp. Sân tháp hình vuông, có tường bao quanh. Nền tháp xòe rộng, hình lục lăng, mặt ngoài chạm nổi hình sóng nước. Tầng bệ tháp tạc đài sen 102 cánh, chạm nổi trang trí hoa dây. Trong lòng tầng 2 của tháp đặt tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông, cao 62cm, bằng chất liệu đá cẩm thạch, trong tư thế một nhà sư ngồi thiền định, mình khoác áo cà sa hở ngực phải, các nếp áo chảy tràn ra mặt bệ tượng.


Am Thiền Định

Am Thiền Định xưa vốn là một ngôi tháp cổ đặc biệt ở Yên Tử, đứng đơn lẻ một mình, phía sau chùa Hoa Yên. Tháp xây bằng gạch đỏ tráng men xanh, bề mặt đúc nổi nhiều hoa văn và mặt thú lạ. Am Thiền Định nay chỉ còn lại dấu vết của nền móng cũ.

Chùa Một mái

Chùa Một Mái nằm nép mình bên sườn núi cao. Một nửa chùa ẩn sâu trong hang núi, nửa còn lại phô ra bên ngoài và chỉ có một mái. Không gian trong chùa rất hẹp. Kiến trúc chùa được làm bằng gỗ, mái lợp ngói ta. Xung quanh là hệ thống ván bưng, có hai cửa sổ chấn song, được bố trí ở giữa để tạo độ thoáng cho không gian bên trong.

Am Thung, Am Dược
Am Thung và Am Dược hiện nay chỉ còn là các phế tích. Dấu vết kiến trúc còn lại cho thấy, các am này được xây bằng đá. Am Dược có mặt bằng kiến trúc hình chữ Đinh, gồm ba gian chính điện và một gian hậu cung. Am Thung có mặt nền kiến trúc gồm ba gian bái đường và một gian hậu cung.

Chùa Bảo Sái

Chùa Bảo Sái nằm trên sườn núi, quay hướng Tây Nam. Chùa chính có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái bái đường và một gian hậu cung.


 Đường lên chùa Bảo Sái

 Nhà tổ có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Nhất, gồm ba gian, thấp hơn so với chùa chính khoảng 1m, mái lợp ngói vẩy.

Chùa Vân Tiêu

Chùa Vân Tiêu toạ lạc trên sườn núi. Hai bên chùa có 2 dãy núi cao, tạo thành thế tay ngai bao bọc lấy chùa. Bên phải chùa có một dòng suối.


 Toàn cảnh chùa Vân Tiêu, Yên Tử

 Các hạng mục kiến trúc chính của chùa gồm: chùa chính, thiêu hương, nhà tăng, nhà bếp và một số công trình phụ trợ khác. Chùa chính có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái.

Chùa Đồng

Chùa Đồng nằm trên đỉnh cao nhất của núi Yên Tử, được đúc từ chất liệu đồng. Mặt bằng kiến trúc của chùa dạng chữ Nhất, kết cấu vững chắc, được đặt trên sập đồng, dạng chân quỳ, dạ cá. Dáng chùa như một bông hoa sen nở, ngự trên sập đồng.
 

Chùa Đồng, Yên Tử

 Chùa quay hướng Tây Nam, diện tích khoảng 20m2, chiều cao từ mặt nền đến mái là 3,35m. Chùa được làm thành khối vuông bốn mái, lợp ngói mũi hài, bờ nóc và bờ giải không trang trí, hai đầu bờ nóc cùng bốn đầu đao là hình đầu rồng.

 
Mỗi năm, có hàng ngàn lượt du khách về với chùa Đồng. Ai cũng muốn chà tiền vào chuông chùa, cột kèo... để lấy hên.

 Những giá trị lịch sử - văn hóa đặc biệt của khu di tích đã đưa Yên Tử trở thành một chốn thiêng trong đời sống tinh thần của người Việt.

+ Chùa Hoa Yên - Núi Yên Tử

 Từ Hà Nội có thể đi xe ô-tô vượt quãng đường 125 km, qua thành phố Uông Bí thì rẽ vào đường Vàng Danh, đi tiếp khoảng 9 km thì rẽ trái. Có thể lên núi Yên Tử bằng hai cách.Chùa Hoa Yên được dựng từ thời Lý và được tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Chùa tọa lạc trên lưng chừng núi, quay hướng Tây Nam, gồm có các hạng mục: chùa chính, nhà tổ, tả vu, hữu vu, nhà khách, nhà ni, nhà bếp và một số công trình phụ trợ khác.

 Chùa Hoa Yên


Chùa chính có mặt nền kiến trúc kiểu chữ Công, vì kèo kết cấu, theo thức thượng giá chiêng chồng rường, hạ bẩy. Nhà tổ có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm ba gian, hai chái, mái lợp ngói mũi hài kép. Hai dãy tả vu, hữu vu kiến trúc giống nhau, dạng hai tầng tám mái. Nhà khách gồm một gian, hai chái, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài.





 


Đứng ở độ cao 1068 m trên đỉnh núi có thể nhìn bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn với những đảo nhỏ thấp thoáng trong Vịnh Hạ Long như một bức tranh, xa hơn là sông Bạch Đằng.





 




 

 Dọc đường còn có một số điểm tham quan như Tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, tượng đá Yên Kỳ Sinh, am Ngọa Vân, bàn cờ tiên, các khu du lịch sinh thái Thác Vàng, Thác Bạc. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử xây trên nền dấu tích của chùa Lân mà đức Điếu Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông từng thuyết giảng chúng sinh. Đây là công trình thiền viện lớn nhất Việt Nam.


17. CHÙA VĨNH NGHIÊM – BẮC GIANG

Chùa Vĩnh Nghiêm ở làng Đức La xã Trí Yên huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang, Việt Nam, còn được gọi là chùa Đức La, là một trung tâm Phật giáo, nơi đào tạo tăng đồ cho cả nước, nơi phát tích Tam Tổ phái Thiền Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam, một viên ngọc sáng trong các chùa cổ Việt Nam.

Trước kia, chùa Vĩnh Nghiêm thuộc xã Đức La, tổng Trí Yên, phủ Lang Giang, nay là thôn Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang nên còn gọi là chùa Đức La và lễ hội ở đây được gọi là lễ hội La. Chùa Vĩnh Nghiêm tọa lạc nơi hợp lưu của sông Lục Namsông Thương (gọi là ngã ba Phượng Nhãn). Chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục Đầu Giang - Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử. Bao quanh chùa là núi non trong đó có núi Cô Tiên. Bên kia sông là vương phủ của Trần Hưng Đạo, đền Kiếp Bạc.




Văn bia chùa thời Trần viết: “Đức Tổ Điều Ngự Pháp Loa khi mở tùng lâm này, còn mở cái chợ Đức La. Các vị vương thân quốc thích và thập phương đàn Việt, phát tâm tậu ruộng đất ở tại bản xã và các hạt khác các nơi, để cúng hương dâng tam bảo muôn đời. Chùa này và chùa Sùng Nghiêm cả thảy 72 chốn tùng lâm, công đức sáng tạo, hợp khắc vào bia ở chùa Hoa Nghiêm núi Yên tử”. Một tấm bia chùa dựng khác viết: “Ðức tổ Điều Ngự (tức Trần Nhân Tông) khi mở Tùng lâm này (tức chùa Vĩnh Nghiêm), mở cả chợ chùa. Các vị vương thân quốc thích và khách thập phương đã phát tâm tậu nhiều ruộng cúng cho chùa, gồm cả ruộng trong xã và ruộng ở các hạt khác nữa”.



Tương truyền chùa Vĩnh Nghiêm có từ đầu thời Lý Thái Tổ (1010-1028), tên chữ là Vĩnh Nghiêm Tự (永嚴寺). Thời vua Trần Thánh Tông (1258-1278) đều có các vị cao tăng tu hành nên được tu tạo nguy nga, tráng lệ. Khi vua Trần Nhân Tông (陳仁宗; 1258-1308), từ bỏ ngôi vua thành người tu hành đến chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Ngoạ Vân (Yên Tử) thụ giới, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, sáng lập lên phái Thiền tông của Phật giáo Việt Nam. Hương Vân cùng hai đệ tử Pháp Loa (法螺), Huyền Quang (玄光) sáng lập, hoàn chỉnh phái Thiền tông Việt Nam gọi là Tam tổ.




Nguyên chùa Ngoạ Vân do sư Hiện Quang trụ trì, khi Hiện Quang viên tịch thì không còn nữa. Do Yên Tử là quê hương nhà Trần và nơi vua Trần Thái Tông lập phái Trúc Lâm ở đây nên Hương Vân Trần Nhân Tông thụ giới cả chùa Vĩnh Nghiêm và ở đây. Pháp Loa được ngài Hương Vân truyền pháp đã đi khắp nơi thuyết pháp, giảng bộ sách “Thiền Uyển Truyền Đăng Lục”. Khi Hương Vân viên tịch, Pháp Loa làm lễ hoả táng, xây tháp mộ ở núi Yên Tử, dâng tôn hiệu là “Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật” gọi là Trúc Lâm đệ nhất Tổ. Rồi Pháp Loa về chùa Vĩnh Nghiêm trụ trì, xây dựng nơi đây thành trung tâm Phật giáo, đào tạo Tăng đồ và xếp đặt Tăng chức, chỉ đạo các chùa trong cả nước. Pháp Loa cho đúc 1.300 pho tượng, được đặc trách định Tăng đồ, đã có hơn 15.000 tăng ni, đệ tử, trong đó có hơn 3.000 đắc pháp, mở 200 sở đường… Cho soạn lại các sách “Đoạn Sách Lục, Tham Thiền, Yếu Chỉ”. Năm 1330, Pháp Loa giao lại cho Huyền Quang đã sang chùa Quỳnh Lâm trụ trì, vài tháng sau thì viên tịch, được phong là “Tĩnh Chi Tôn Giả”, làm Trúc Lâm đệ nhị Tổ.



Về Huyền Quang, vốn người làng Vạn Tải thuộc bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh), con của Lý Ôn Hòa (quan triều Lý Thần Tông), đỗ Trạng Nguyên thời Trần. Khi còn đang làm quan, Huyền Quang hộ giá đến chùa Vĩnh Nghiêm gặp Pháp Loa giảng đạo, thế là tỉnh ngộ, về triều hai lần dâng biểu từ quan được Hương Vân giao trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm. Huyền Quang đã soạn các bộ sách lớn: Chư Phẩm Kinh, Công Văn Tập, cho in kinh Phật, phân phát cho người nghèo, viên tịch năm 1334, được ban hiệu là “Trúc Lâm Đệ Tam Đại Tự Pháp Huyền Quang Tôn Giả”, làm Trúc Lâm đệ tam Tổ. Như vậy, trước khi Hương Vân đến Yên Tử, Pháp Loa đến chùa Quỳnh Lâm, thì đều đã trụ trì ở chùa Vĩnh Nghiêm. Cả ba vị Tam Tổ Trúc Lâm: Hương Vân (Đệ nhất Tổ), Pháp Loa (Đệ nhị Tổ) và Huyền Quang (Đệ tam Tổ) đều lấy chùa Vĩnh Nghiêm làm trung tâm giảng đạo. Hiện nay, trong nhà Tổ đệ nhất còn đủ ba tượng Trúc Lâm Tam tổ: trong khám là tượng Hương Vân Trần Nhân Tông, bên ngoài là tượng Pháp Loa và tượng Huyền Quang. Nơi đây đã là đất tổ của đạo Phật thời Trần, đào tạo rất nhiều Tăng đồ.



Sau này có một số vị sư từ Bắc vào Sài Gòn đã cho xây dựng một ngôi chùa Vĩnh nghiêm thứ hai tại số 339, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 7, Quận 3,Saigon. Đây là một ngôi chùa rất nổi tiếng tại Việt Nam. Hiện, ngôi chùa này còn nổi tiếng hơn cả ngôi chùa gốc - chùa Chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang).

18. CHÙA BỔ ĐÀ-  BắcGiang

Chùa Bổ Đà có tên chính xác là chùa Quán Âm núi Bổ Đà hay Bổ Đà Sơn Quán Âm Tự (普陀山觀音寺), gọi tắt là chùa Bổ, còn có các tên gọi khác là chùa Quán Âm, Tứ Ân Tự ( 四恩寺 ), là một trong những ngôi chùa độc đáo nhất miền đất Kinh Bắc, là Trung tâm Phật giáo lớn của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Chùa toạ lạc trên ngọn núi Phượng Hoàng (Bổ Đà sơn), phía Bắc dòng sông Cầu, thuộc địa phận xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang (xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh xưa). Chùa Bổ là một trong những nơi còn giữ nguyên bản nét kiến trúc truyền thống Việt cổ. Chùa có kiến trúc độc đáo và khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, vườn tháp đẹp và lớn nhất Việt Nam, nhiều cổ vật có giá trị và kho tàng di sản Hán - Nôm phong phú.



NNU Chùabổđà.jpg


Đây cũng là nơi sơn thủy giao hòa, nhìn sông tựa núi, cảnh sắc, không gian nhuốm màu huyền thoại, xung quanh là đồi núi xóm làng bao bọc. Chùa thờ Tam giáo, trong đó có Quán Thế Âm Bồ Tát, Trúc Lâm Tam tổ (gồm Trần Nhân Tông, Pháp LoaHuyền Quang), Khổng Tử. Quần thể chùa Bổ Đà là một tập hợp di tích gồm: chùa cổ có tên là Bổ Đà Sơn (gọi tắt là chùa Bổ Đà, chùa Bổ; còn gọi là chùa Quán Âm), chùa chính Tứ Ân Tự, Am Tam Đức (xây dựng sau, vào thời Hậu Lê). Ngoài ra trên núi Bổ Đà còn có đền thờ Đức Thánh Hóa (tức Thạch Tướng Đại Vương - có công giúp vua Hùng thứ 16 chống giặc ngoại xâm).





Câu chuyện truyền thuyết về sự ra đời của chùa Bổ Đà mang nhiều huyền bí. Tương truyền, vào khoảng thế kỷ thứ XI, dưới chân núi có một gia đình tiều phu tuy nghèo nhưng rất tốt bụng, chăm chỉ hiền lành, dân trong làng ai cũng quý mến. Hiềm một nỗi đã ngoài 40 tuổi mà họ vẫn chưa có con. Một hôm người chồng vác búa cắp dìu lên núi kiếm củi bỗng gặp một gốc cây thông già, mỗi nhát bổ ông lại niệm: “Quan thế âm Phật”.


Sau đó được 32 đồng tiền ở gốc cây, tự lấy làm lạ bèn đến vị cao tăng hỏi thì cao tăng bảo rằng: “Đức phật quan âm có 32 điều ứng”. Người tiều phu khấn cầu rằng: “Nhược bằng đức Phật quan âm phù hộ cho tôi sinh con trai, tôi xin dựng chùa thờ”.Quả nhiên sau đó người tiều phu có con trai thực, rồi dành dụm được ít tiền bèn dựng một ngôi chùa ngay gốc cây thông già, lợp gianh và tô một pho tượng Quan âm Tống Tử để hương khói phụng thờ. Sau dần dần nhiều người qua lại lễ bái, cầu việc gì cũng đều biến ứng, bèn trở nên nơi danh lam thắng cảnh, vì thế gọi tên là chùa ông Bổ. Vì là chùa thờ vị Phật Đà (Bụt Đà, có nguồn gốc từ chữ Buddha) đã ứng hiện giúp ông tiều phu (ông bổ củi) nên gọi là chùa Bổ Đà.
Vườn tháp


Cũng có cách giải thích khác rằng, Bổ Đà là cách gọi chệch từ Phổ Đà - có nguồn gốc từ chữ Phật Đà. Đây là nơi đức Quán Âm Bồ Tát ứng hiện cứu đời nên còn được gọi là chùa Quán Âm. Sau này ,chùa bao gồm cả chùa Tứ Ân, nên nó còn có tên Tứ Ân Tự (tên gọi của chùa chính được gọi cho cả quần thể chùa bao gồm chùa Tứ Ân tự, chùa Quán Âm, chùa Cao...).

 

Dấu vết vật chất và thư tịch còn lại ở chùa cho biết Chùa có từ thời nhà Lý thế kỷ 11 và được xây dựng lại vào thời Lê Trung hưng, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1705-1728).
Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, dù nhiều cuộc chiến tranh đã đi qua nhưng thật may mắn cho chùa Bồ Đà vẫn giữ nguyên được vẻ cổ kính như thủa khai thiên.


 Kho mộc bản kinh Phật



19. CHÙA NON NƯỚC-Ninh Bình

Tại Việt Nam có ba chùa Non Nước tại các núi: Sóc Sơn ( Phú  Thọ), Dục Thúy sơn  ( Ninh Bình) và Ngũ Hành sơn ( Đà Nẵng)

Núi Non Nước (tên cổ là Dục Thúy Sơn), là một ngọn núi nằm ngay trên ngã ba sông Vân với sông Đáy, kẹp giữa 2 cây cầu Non Nước và cầu Ninh Bình. Núi là một tiền đồn nằm ở cửa ngõ phía đông thành phố Ninh Bình. Lối lên đỉnh Non Nước qua 72 bậc gạch đá, chia làm 5 cấp. Đỉnh núi tương đối bằng phẳng, cây cối xanh mát, rất thuận tiện nghỉ ngơi, giải trí cho khách tham quan.

Tập tin:Huynonnuoc2.jpg

Bên núi có chùa Non Nước và đền thờ danh sĩ Trương Hán Siêu đời Trần. Trên núi có hàng trăm bài thơ của các tao nhân mặc khách như: Trương Hán Siêu, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Thiệu Trị, Tự Đức, Phạm Sư Mạnh, Tản Đà, v.v.
Trương Hán Siêu là người có công đầu phát hiện và khai thác vẻ đẹp của núi Non Nước. Ông đặt tên núi là Dục Thúy Sơn và là người đầu tiên lưu bút tích một bài thơ cho các thi sĩ đến thưởng ngoạn, ngắm cảnh làm những bài thơ khắc vào đá. Ông đã viết bài “Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký” (Bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy) nhân dịp tháp này trùng tu.




Từ thời Lý, ngôi chùa này đã xuất hiện tháp là nơi thờ Phật. Trong tháp đặt một tượng Phật chính và một số tượng phụ. Sang thế kỷ XIII, tháp được tách ra, thành hai kiến trúc riêng: chùa và thápNhờ lắng đọng bề dày trầm tích gắn với lịch sử hình thành vùng đất Ninh Bình, núi Thúy -sông Vân trở thành hình ảnh biểu tượng độc đáo đặc trưng của thành phố Ninh Bình.

20. CHÙA BÁI ĐÍNH  – Ninh Bình

Chùa Bái Đính là một quần thể chùa lớn được biết đến với nhiều kỷ lục châu Á và Việt Nam được xác lập như chùa có tượng Phật bằng đồng dát vàng lớn nhất châu Á, chùa có hành lang La Hán dài nhất châu Á[2], chùa có tượng Di lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á... Đây là ngôi chùa lớn nhất và sở hữu nhiều kỷ lục nhất ở Việt Nam. Các hạng mục xây dựng, mở rộng khu chùa mới được các đại biểu tham dự đại lễ Phật đản thế giới 2008 làm lễ khánh thành giai đoạn 1, năm 2010 chùa Bái Đính là nơi tổ chức Đại lễ cung nghinh xá lợi Phật đầu tiên từ Ấn Độ về Việt Nam. Chùa nằm ở cửa ngõ phía tây khu di tích cố đô Hoa Lư, bên quốc lộ 38B, thuộc xã Gia Sinh - Gia Viễn - Ninh Bình, cách thành phố Ninh Bình 15 km, cách Hà Nội 95 km.


Quần thể chùa Bái Đính hiện có diện tích 539 ha[3] bao gồm 27 ha khu chùa Bái Đính cổ, 80 ha khu chùa Bái Đính mới, các khu vực như: công viên văn hoá và học viện Phật giáo, khu đón tiếp và công viên cảnh quan, đường giao thông và bãi đố xe, khu hồ Đàm Thị, hồ phóng sinh...[4] vẫn đang được tiếp tục xây dựng.

 

Hơn 1000 năm về trước, tại Ninh Bình đã có ba triều đại Vua nối tiếp nhau ra đời: nhà Đinh, nhà Tiền Lênhà Lý. Ba triều đại đều rất quan tâm đến đạo Phật và coi đạo Phật là Quốc giáo; cho nên tại Ninh Bình có rất nhiều chùa cổ, trong đó có chùa Bái Đính, trên dãy núi Tràng An.

 

Quần thể chùa Bái Đính gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đô Hoa Lư. Kiến trúc chùa mới hoành tráng, đồ sộ nhưng mang đậm bản sắc truyền thống phù hợp với tâm lý hiếu kỳ, tò mò của người Việt Nam thời nay.[5] Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến nổi tiếng. Khu chùa Bái Đính mới được các báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất Đông Nam Á.[6][7][8]




21.  CHÙA THẦY -Sơn Tây


Chùa Thầy là một ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Đây là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật tích.



Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, còn chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.
 Nao lòng vẻ đẹp chùa Thầy thế kỷ trước (8)

Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng.

   

Chùa Hạ là nhà tiền tế, bày các tượng Đức Ông, Thánh hiền. Ống muống để tượng Bát bộ Kim Cương. Chùa Trung bày bàn thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp, tượng Thiên vương. Chùa Thượng hay chùa trên tách biệt hẳn, ở vị trí cao nhất, biển đề Đại hùng Bảo điện, đồng thời là nhà thánh, để tượng Di Đà tam tôn, tượng ba kiếp của thiền sư Từ Đạo Hạnh, tượng cha mẹ Từ Đạo Hạnh.

 

Xung quanh chùa có hai dãy hành lang, phía sau có lầu chuông, lầu trống.
Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm của rồng trước trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã chết, được thay bởi cây đa. Từ sân này có hai cầu là Nhật tiên kiều và Nguyệt tiên kiều nối sang hai bên, tạo thành hai râu rồng. Hai cầu này do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một hòn đảo nhỏ, trên đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi.


Giữa ao Long Chiểu có thủy đình là viên ngọc giữa miệng rồng. Đây cũng là nơi diễn ra trò múa rối nước. Từ Đạo Hạnh được cho là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này.


Chùa thượng của chùa Thầy, Đại Hùng bảo điện Tại chùa Hạ có các pho tượng Đức Ông khá đẹp, và một bức bình phong lớn mô tả cảnh địa ngục.
Các pho Kim Cương đứng trong những tư thế võ mạnh mẽ, sống động. Tại chùa Trung có hai pho tượng Hộ pháp được cho là lớn nhất trong các ngôi chùa Việt Nam, cao gần 4m. Tượng Hộ pháp đắp bằng đất thó, giấy bản giã nhỏ trộn với mật, trứng,..., nên sau hơn ba trăm năm vẫn còn rất tốt.


22. CHÙA  TÂY PHƯƠNG- Sơn Tây

Chùa Tây Phương (hay còn gọi là Sùng Phúc tự) nằm trên ngọn núi Tây Phương, thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây.Từ cổng chùa này, đi bộ qua 239 bậc đá, du khách đã đặt chân lên đến đỉnh núi và chùa chính.Tháp cổ bên hông chùa chính.Đi sâu vào bên trong các gian của chùa, được tận mắt chiêm ngưỡng những pho tượng Phật được coi là kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo mới thấy thật ấn tượng. 72 pho tượng cùng các phù điêu có mặt ở khắp nơi trong chùa. Nhiều pho tượng được tạc cao lớn như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp. Theo tài liệu để lại, phần lớn các tượng này đều có niên đại cuối thế kỷ XVIII. Một số khác được tạc vào giữa thế kỷ XIX.


 


23. CHÙA MÍA -Sơn Tây

Chùa Mía (tên chữ: Sùng Nghiêm tự 崇嚴寺) là một ngôi chùa ở xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Nội. Xưa kia, vùng này là Cam Giá, tên Nôm là Mía, nên chùa này được quen gọi là chùa Mía. Đây là ngôi chùa lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt Nam.   Ban đầu, chùa có quy mô nhỏ, được xây dựng từ xa xưa[2].


Năm 1632, Phi tần trong phủ chúa Trịnh Tráng là Ngô Thị Ngọc Diệu (còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Dong) [3] thấy miếu bị hoang phế điêu tàn nên đã cùng cha mẹ và người dân các làng thuộc tổng Cam Giá (tức Tổng Mía) cùng nhau tôn tạo lại. Phi tần Ngọc Dong vốn là người làng Nam Nguyễn (Nam An) trong Tổng Mía, nên được người mến mộ gọi là “Bà Chúa Mía.”, đồng thời đã tạc tượng đưa vào phối thờ ở chùa và còn có đền thờ riêng. Về sau chùa được tu bổ nhiều lần, song đến nay quy mô tôn tạo thời Bà chúa Mía dường như vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.


 
 
Tháp Cửu phẩm Liên Hoa ở Chùa Mía

Gác chuông của chùa là ngôi nhà 3 gian làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Các góc mái đều gắn đao triện. Sàn nhà bằng gỗ, ở tầng gác có hàng lan can tiện. Các ván long, xà nách đều được bào xoi cạnh và chạm trang trí đề tài hoa lá. Trên gác treo một quả chuông đúc năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) và một khánh đồng đúc năm Thiệu Trị thứ 6 (1864).

  

Gần gác chuông và cây đa cổ thụ là tòa bảo tháp Cửu phẩm Liên Hoa cao 13 m thờ vọng Xá Lợi đức Phật.Trong tiền đường, ở gian phải có tấm bia khắc năm 1634, nói về việc trùng tu chùa năm 1632. Bia trang trí đẹp, cao hơn 1,6 m, rộng 1,2 m, dựng trên lưng một con rùa. Gian trái tiền đường có bàn thờ chúa Liễu Hạnh. Sau tiền đường là chùa Trung, tiếp theo là chùa Thượng - hậu đường. Có hai dãy hành lang nối chùa Trung và chùa Thượng, bao quanh lấy Phật điện ở giữa.

 

Chùa Trung và chùa Thượng còn giữ được bộ khung gỗ mà có nhiều phần điêu khắc có từ thế kỷ 17. Chùa Mía khá nổi tiếng với số lượng có ở đây: có đến 287 pho tượng lớn, nhỏ, trong đó có 6 pho tượng đồng, 106 pho tượng gỗ và 174 pho tượng bằng đất luyện được sơn son thếp vàng.

 Tượng La hán ở chùa Mía









Tôn tượng 18 vị La Hán. Mỗi vị mỗi vẻ, nhưng vị nào cũng toát lên vẻ uy nghiêm, thanh tịnh. Tôi "thăm" 18 vị La Hán lâu nhất, cảm niệm trong lòng khó diễn tả bằng lời..



Ở chùa Trung có hai pho tượng Hộ Pháp lớn và 8 pho tượng Kim Cương. Mỗi pho tượng là hình tượng một võ tướng đang trong tư thế chuẩn bị chiến đấu để trừ tà bảo vệ phật pháp. Hình khối, bố cục vững chắc, thân hình cân đối, đường nét thoải mái và khỏe.


Tại chùa Thượng, người ta còn thấy các động bằng đất đắp. Trong và xung quanhcác động có khá nhiều tượng. Trong một động có cả tượng Phật Thích Ca nhập Niết bàn. Pho tượng Tuyết Sơn cao 0,76 m và Quan Âm Tống Tử cao 0,76 m ở đây cũng rất đẹp. Tượng Quan Âm thường được gọi là tượng Bà Thị Kính. Tượng này diễn tả một người phụ nữ thùy mị, có duyên, vẻ mặt hơi buồn nhưng rất hiền từ nhân hậu, ẵm một đứa bé bụ bẫm kháu khỉnh. Đường nét chạm khắc mềm mại, trau  chuốt.

TuongTuyetSonChuaMia


Nơi chính điện, Ban Tam Bảo



Những pho tượng cổ Ban Tam Bảo

Tượng Ngài Hộ Pháp, trước thềm Tam Bảo phía bên trái

Một bên Động Quán Âm Nam Hải

Động Quán Âm Thị Kính

Đức Chuẩn Đề

Ban thờ Đức Thánh Hiền

chua mia
Cổng chùa Mía-Sơn Tây

24.  CHÙA TIÊU SƠN-Bắc Ninh

Tiêu Sơn tự (còn có các tên: chùa Thiên Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tương giang thơ mộng trong cổ tích với câu chuyện Mỵ Nương – Trương Chi. Tiếng hát Trương Chi trên sông Tiêu Tương hàng ngàn đời nay là đề tài cảm hứng cho biết bao văn nhân thi sĩ. Giờ đây dòng Tương giang chỉ còn dấu vết là hồ nước, nhưng núi Tiêu Sơn thì vẫn vững bền. Tiêu Sơn tự (còn có các tên: chùa Thiên Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.




Tiêu Sơn tự (còn có các tên: chùa Thiên Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.


 Tương giang thơ mộng trong cổ tích với câu chuyện Mỵ Nương – Trương Chi. Tiếng hát Trương Chi trên sông Tiêu Tương hàng ngàn đời nay là đề tài cảm hứng cho biết bao văn nhân thi sĩ. Giờ đây dòng Tương giang chỉ còn dấu vết là hồ nước, nhưng núi Tiêu Sơn thì vẫn vững bền. Tiêu Sơn tự (còn có các tên: chùa Thiên Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Chùa Tiêu- ( Chùa Thiên Tâm, chùa Tiêu Sơn) xã Tương Giang, tx Tiên Sơn, Bắc Ninh


Sử cũ ghi: “Chùa là một thiền viện, đào tạo các bậc cao tăng và cung cấp kinh sách cho nhiều chùa trong nước”. Những bậc dẫn lên chùa mát rượi bóng cây cổ thụ, ngỡ như đang đưa du khách đến chốn bồng lai. Có thể nói không ngoa rằng: đây là nơi đã khai sinh triều đại nhà Lý, bởi Lý Công Uẩn được nuôi dưỡng và hun đúc tài năng tại đây, nhờ trí tuệ và tâm huyết của Thiền sư Vạn Hạnh. Trên cột nhà bia còn lưu câu đối chữ Hán:
 

Lý gia linh tích tồn bi kỷ
Tiêu lĩnh danh kha đắc sử truyền”
(Dấu thiêng nhà Lý còn bia tạc
Danh thắng non tiên có sử truyền)
Chùa Tiêu không chỉ là di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật được Nhà nước công nhận, mà còn là một danh lam với cảnh đẹp u nhã, thiên nhiên “sơn thủy hữu tình”.



Không chỉ là người có công kiến tạo triều Lý, Thiền sư Vạn Hạnh còn là người đã khai sinh nền văn học viết của nước ta, với ba thể loại văn học đầu tiên: sấm ký, khuyến, kệ. Ngay sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua vào năm 1010, đã tôn vinh Vạn Hạnh làm quốc sư.
Mới đây nhân dân Tiêu Sơn đã xây dựng phiên bản pho tượng Vạn Hạnh cưỡi hổ, kích thước lớn gấp hàng chục lần, đặt trên đỉnh Tiêu Sơn để du khách thập phương chiêm bá

chuatieuson


Thiền sư Như Trí trụ trì chùa Tiêu vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, là đệ tử nối pháp của Thiền sư Chân Nguyên (trụ trì chùa Long Động ở Yên Tử). Ngài có công phục hưng thiền phái Trúc Lâm, giữ gìn nhiều tư liệu quí báu của thiền phái, cùng nhiều chư tăng đương thời sưu tập, khắc in rất nhiều sách. Cuốn Thiền uyển tập anh được ngài khắc in năm 1715 tại chùa Tiêu, là bộ sử thiền giá trị của nền văn hóa Phật giáo nước nhà.



Thiền sư Như Trí

Thiền sư Như Trí viên tịch năm Bảo Thái thứ tư, đời vua Lê Dụ Tông (1723) để lại nhục thân xá lợi. Trên tháp Viên Tuệ có ghi “Nhục thân Bồ tát Như Trí hiệu Tính Không” và “Lê triều Bảo Thái đệ tứ niên” (Quí Mão 1723).
 

Ngày 5-3-2004, tháp cổ được mở trước sự chứng kiến của chính quyền sở tại, các tăng ni đến từ Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, đại diện Bảo tàng Bắc Ninh, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và đông đảo nhân dân địa phương. Hết thảy đều vui mừng khi thấy nhục thân của thiền sư Như Trí còn tương đối nguyên vẹn.


25. CHÙA CẢM ỨNG-Băc Ninh

Cảm Ứng tự là ngôi chùa đẹp nổi tiếng ở xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh. Đây là công trình kiến trúc tiêu biểu vào loại bậc nhất trên vùng quê xứ Bắc, được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào năm 1992.
Trải qua nhiều giai đoạn trùng tu, tôn tạo, đặc biệt là giai đoạn từ 2005 tới nay với mức đầu tư trên 16,4 tỷ đồng của chương trình mục tiêu quốc gia, chùa Cảm Ứng đã được phục dựng lại gần như nguyên vẹn, trở thành một điểm du lịch tín ngưỡng, tâm linh lôi cuốn nhân dân và du khách thập phương.




Chùa Cảm Ứng có 100 gian với 18 công trình, hạng mục công trình, tạo thành một quần thể kiến trúc độc đáo vừa hoành tráng vừa mang dáng vẻ cổ kính, rêu phong khiến cho những người tới đây có được cảm giác thăng hoa, sống trong triết lý thanh bạch và “từ bi hỷ xả”.
Chùa Cảm Ứng ngay từ thời Tiền Lê, đầu thời Lý đã là một trong những trung tâm Phật giáo của vùng Kinh Bắc và cả nước.

Theo sách “Việt sử lược” khoảng năm niên hiệu Ứng Thiên (995- 1007) chùa là nơi thiền sư Vạn Hạnh đã từng đưa Lý Công Uẩn về đây lánh nạn. Khi Vương triều Lý ra đời, chùa vẫn là nơi trụ trì và hành đạo của nhiều vị tổ sư đã có nhiều công lao đóng góp vào việc xây dựng triều chính và nền văn hóa dân tộc.

 
 
Chùa Cảm Ứng có 100 gian với 18 công trình, hạng mục công trình, tạo thành một quần thể kiến trúc độc đáo vừa hoành tráng vừa mang dáng vẻ cổ kính, rêu phong khiến cho những người tới đây có được cảm giác thăng hoa, sống trong triết lý thanh bạch và “từ bi hỷ xả”.
Chùa Cảm Ứng ngay từ thời Tiền Lê, đầu thời Lý đã là một trong những trung tâm Phật giáo của vùng Kinh Bắc và cả nước.

Theo sách “Việt sử lược” khoảng năm niên hiệu Ứng Thiên (995- 1007) chùa là nơi thiền sư Vạn Hạnh đã từng đưa Lý Công Uẩn về đây lánh nạn. Khi Vương triều Lý ra đời, chùa vẫn là nơi trụ trì và hành đạo của nhiều vị tổ sư đã có nhiều công lao đóng góp vào việc xây dựng triều chính và nền văn hóa dân tộc.



Năm 1063, để ghi dấu về việc cầu tự ở chùa Cảm Ứng, vua Lý Thái Tôn đã cho xây dựng chùa với qui mô to lớn, trở thành một danh lam thắng cảnh và một trung tâm đào tạo Phật giáo cho các tăng ni. Từ giữa thế kỷ thứ 15 trở đi, cùng với sự phát triển kinh tế của địa phương, chùa Cảm Ứng được sửa chữa với qui mô lớn vào năm 1519.
Những năm 1693-1697 chùa được trùng tu và mở rộng với nhiều hạng mục công trình, trong chùa có hàng trăm pho tượng sơn son, thếp vàng lộng lẫy. Năm 1826, chùa được xây dựng hoàn chỉnh 100 gian, 18 hạng mục công trình trở nên ngôi chùa đẹp vào bậc nhất ở vùng Kinh Bắc.
Năm 1972, do bị giặc Mỹ ném bom, nhiều công trình, hạng mục trong chùa bị đổ nát, nhiều tượng Phật bị cháy hỏng. Các năm 1975 và 2000, nhân dân xã Tam Sơn đã đóng góp sức người và tiền của tu bổ di tích với qui mô kiến trúc gần như nguyên vẹn.




Chùa Cảm Ứng hiện còn lưu giữ được nhiều pho tượng Phật, cổ vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật đặc sắc như Khánh đá tạo tác năm 1672, cây hương đá dựng khắc năm 1697, chuông đồng đúc năm 1826 và tấm bia đá “Tam Sơn xã đăng khoa bi kí” dựng khắc năm 1902.


Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sư dân tộc, chùa Cảm Ứng đã được bảo quản, trùng tu, tôn tạo với đầy đủ dáng vẻ cổ xưa. Chùa là báu vật và niềm tự hào của người Bắc Ninh-Kinh Bắc, quê hương của Vương triều Lý, một vương triều vàng son bậc nhất trong các thời kỳ phong kiến Việt Nam.
Vào những ngày chuẩn bị cho Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, chùa luôn được tiếp đón đông đảo người dân, du khách đến thăm, thắp hương, tưởng nhớ tới nhiều bậc tiền nhân, ghi nhớ công lao của họ trong các thời kỳ dựng nước và giữ nước.

26. CHÙA PHẬT TÍCH - Bắc Ninh

Chùa Phật Tích (Phật Tích tự 佛跡寺) còn gọi là chùa Vạn Phúc (Vạn Phúc tự 萬福寺) là một ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên), xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trong chùa có tượng đức Phật bằng đá thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam. Chùa Phật Tích được xếp hạng Di tích Lịch sử- Văn hóa tại Quyết định số 313/VH-VP, ngày 28 tháng 4 năm 1962 của Bộ Văn hóa.



Theo tài liệu cổ thì chùa Phật Tích được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ 4 (1057) với nhiều tòa ngang dãy dọc. Chùa được xây dựng vào thời nhà Lý nhưng ngôi chùa vào thời Lý hiện nay không còn nữa, nó đã được phá đi xây dựng mới.
Năm 1066, vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao. Sau khi tháp đổ mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh nguyên khối được dát ngoài bằng vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, xóm Hỏa Kê (gà lửa) cạnh chùa đổi tên thành thôn Phật Tích.

Văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy (1686) ca ngợi vẻ đẹp của cảnh chùa: "Đoái trông danh thắng đất Tiên Du, danh sơn Phật Tích, ứng thế ở Càn phương (hướng Nam) có núi Phượng Lĩnh bao bọc, phía tả Thanh Long nước chảy vòng quanh. Phía hữu Bạch Hổ núi ôm, trên đỉnh nhà khai bàn đá..."


Năm 1071, vua Lý Thánh Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ "Phật" dài tới 5 m, sai khắc vào đá đặt trên sườn núi. Bà Nguyên phi Ỷ Lan có đóng góp quan trọng trong buổi đầu xây dựng chùa Phật Tích.
Thời bấy giờ vua Trần Nhân Tông đã cho xây tại chùa một thư viện lớn và cung Bảo Hoa. Sau khi khánh thành, vua Trần Nhân Tông đã sáng tác tập thơ "Bảo Hoa dư bút" dày tới 8 quyển. Vua Trần Nghệ Tông đã lấy Phật Tích làm nơi tổ chức cuộc thi Thái học sinh (thi Tiến sỹ).

 

Vào thời nhà Lê, năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông, năm 1686, chùa được xây dựng lại với quy mô rất lớn, có giá trị nghệ thuật cao và đổi tên là Vạn Phúc tự. Người có công trong việc xây dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am - đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa về tu ở chùa này. Bia đá còn ghi lại cảnh chùa thật huy hoàng: "... Trên đỉnh núi mở ra một tòa nhà đá, bên trong sáng như ngọc lưu ly. Điện ấy đã rộng lại to, sáng sủa lại kín. Trên bậc thềm đằng trước có bày mười con thú lớn bằng đá, phía sau có Ao Rồng, gác cao vẽ chim phượng và sao Ngưu, sao Đẩu sáng lấp lánh, lầu rộng và tay rồng với tới trời sao,cung Quảng vẽ hoa nhụy hồng...". Đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), một đại yến hội đã được mở ở đây.


 

Nhưng rồi vẻ huy hoàng và sự thịnh vượng của chùa Phật Tích cũng chỉ tồn tại sau đó được gần 300 năm. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ và chùa bị tàn phá nhiều. Chùa đã bị quân đội Pháp đốt cháy hoàn toàn vào năm 1947.
Khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, chùa Phật Tích được khôi phục dần. Năm 1959, Bộ Văn hóa cho tái tạo lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A-di-đà bằng đá quý giá. Tháng 4 năm 1962, nhà nước công nhận chùa Phật Tích là di tích lịch sử-văn hoá.

Ba cấp nền chùa
Chùa được kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc", sân chùa là cả một vườn hoa mẫu đơn rực rỡ. Bên phải chùa là Miếu thờ Đức chúa tức bà Trần Thị Ngọc Am là đệ nhất cung tần của chúa Trịnh Tráng tu ở chùa này nên có câu đối "Đệ nhất cung tần quy Phật địa. Thập tam đình vũ thứ tiên hương". Bà chẳng những có công lớn trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bên trái chùa chính là nhà tổ đệ nhất thờ Chuyết chuyết Lý Thiên Tộ. Ông mất tại đây năm 1644 thọ 55 tuổi; hiện nay chùa còn giữ được pho tượng của Chuyết công đã kết hỏa lúc đang ngồi thiền.
Cho tới nay, chùa Phật Tích có 7 gian tiền đường để dùng vào việc đón tiếp khách, 5 gian bảo thờ Phật, đức A di đà cùng các vị Tam thế Phật, 8 gian nhà tổ và 7 gian nhà thờ thánh Mẫu.

 

Ngôi chùa có kiến trúc của thời Lý, thể hiện qua ba bậc nền bạt vào sườn núi. Các nền hình chữ nhật dài khoảng 60 m, rộng khoảng 33 m, mặt ngoài bố trí các tảng đá hình khối hộp chữ nhật.
Theo tương truyền, bậc nền thứ nhất là sân chùa với vườn hoa mẫu đơn, nơi xảy ra câu truyện Từ Thức gặp tiên: "...Từ Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp Giáng Tiên bị bắt trói vì tội hái trộm hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại Giáng Tiên..." Do tích này, trước đây chùa Phật Tích mở hội Hoa Mẫu Đơn hàng năm vào ngày mồng bốn tháng giêng để nhân dân xem hoa và các văn nhân thi sĩ bình thơ.
 
Bậc nền thứ hai là nơi có các kiến trúc cổ ngày nay không còn được thấy. Khi đào xuống nền ngôi chùa này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều di vật điêu khắc thời nhà Lý và nền móng của một ngôi tháp gạch hình vuông, mỗi cạnh dài 8,5 m.
Nền thứ ba cao nhất, có Long Trì (Ao Rồng) là một cái ao hình chữ nhật, đã cạn nước.

 27- CHÙA ĐẬU  - Bắc Ninh

Chùa Đậu (tên chữ: Thành Đạo tự 成道寺, Pháp Vũ tự ) là một ngôi chùa ở thôn Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội. Vì chùa thờ Bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ nên chùa được gọi là chùa Đậu và còn có tên là Pháp Vũ tự.


Chùa Thiên Trù
-


Theo truyền thuyết, chùa được dựng dưới thời Bắc thuộc lần thứ hai (602 - 939), nhưng theo văn bia, chùa được xây dựng từ thời triều nhà Lý.
 
 

Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Theo văn bia tu tạo dựng năm Dương Hoà đời thứ 5 thì ngôi chùa này được tôn tạo vào thời nhà Lý, thế kỷ thứ 11. Ngoài ra trong chùa còn nhiều viên gạch lớn thời nhà Mạc và một số bia có niên hiệu Sùng Khang (1566 - 1577).
 




Cũng theo tấm bia trên, có một lần trùng tu lớn vào năm 1635 đời vua Lê Thần Tông.
Chùa được xây dựng kiểu "nội công ngoại quốc". Tam quan chùa là một gác chuông đẹp, hai tầng tám mái với các đầu đao cong vút. Nhiều bộ phận gỗ được chạm khắc hình rồng, phượng và hoa lá.
Tầng trên treo quả chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801) thời nhà Tây Sơn.
Qua tam quan là một sân gạch rộng, hai bên có hai tòa giải vũ làm nơi nghỉ ngơi cho khách hành hương.

Tiền đường phía trước, nối liền với hai dãy hành lang hai bên và nhà tổ ở phía sau làm thành một khung vuông bao bọc lấy tòa thiêu hương và điện thờ Bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ.

 

 Ở chùa Đậu có khá nhiều bia đá từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18.
Trong chùa có chiếc khánh đồng đúc năm 1774 với bài minh do Phan Trọng Phiên biên soạn. Ở đây còn hai tấm biển gỗ sơn son thiếp vàng khắc bài thơ nôm của chúa Trịnh Căn (1682 - 1709) và chúa Trịnh Cương (1709 - 1729).

28.  CHÙA BÚT THÁP -Bắc Ninh


Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự 寧福寺) nằm ở bên đê hữu ngạn sông Đuống, thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là chùa Nhạn Tháp. Trong chùa có tượng Bồ tát Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất Việt Nam.

 

Để xác định chùa có từ bao giờ thì chưa có nhà nghiên cứu nào đưa ra một tài liệu chính xác. Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa.



Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư". Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành.


Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc". Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
 
 

  Đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.
Chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm 1992-1996. Đây là ngôi chùa có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam.
Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật, chùa Bút Tháp đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng là di tích cấp quốc gia theo quyết định số 313-VH/VP ngày 28 tháng 4 năm 1962.




Đây là một trong không nhiều ngôi chùa cổ, có quy mô kiến trúc lớn của Đồng bằng Bắc Bộ còn lại đến ngày nay. Chùa có kiến trúc độc đáo, bố cục hài hòa giữa kiến trúc với môi trường thiên nhiên. Toàn bộ kiến trúc chính của chùa quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Đối với đạo Phật hướng Nam là hướng của trí tuệ, của bát nhã.

 

Quần thể kiến trúc còn giữ lại nhiều di tích của thế kỷ 17. Cụm kiến trúc trung tâm ở Chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy song hành được bố trí đăng đối trên một đường "Thần Đạo" và được bao bọc bởi hai dãy hành lang chạy suốt dọc chùa ở hai bên, đó là tòa Tiền Đường Thượng Điện, cầu đá tòa Thích Thiện Am Trung Đường, phủ thờ nhà Hậu Đường và hàng tháp đá. Sự bố trí chặt chẽ ở khu vực trung tâm này thể hiện một nội dung tư tưởng về giáo lý của đạo Phật. Phật điện của chùa gần như nguyên sơ của chùa cổ Việt Nam, gồm 10 nếp nhà nằm trên một trục dài hơn 100 m. Qua cửa Tam quan, đến gác chuông hai tầng, tám mái.




Chùa chính với ba dãy nhà Tiền đường - Thiên hương - Thượng điện tạo thành chữ "công". Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên trong với các pho tượng.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động và độc đáo. Trang trí được thể hiện ở mọi nơi trên các chất liệu gỗ và đá, ở kiến trúc và ở các đồ thờ. Đặc biệt trên lan can tòa Thượng Điện có 26 bức chạm khắc đá, trên lan can cầu đá nối với Tòa Thích Thiện Am có 12 bức và ở lan can quanh chân tháp Báo Nghiêm có 13 bức.
 

 Như vậy tổng cộng các bức chạm khắc đá ở chùa Bút Tháp là 51 với những đề tài khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau ở mặt chất liệu, phong cách và thống nhất về niên đại.
Hình ảnh chạm khắc ở đây sống động tươi vui hàm chứa ý nghĩa Phật đạo và đặc biệt mang đậm nét tính chất nghệ thuật thiền. Các bức chạm đều tập trung về đề tài thiên nhiên phong phú sinh động như Tứ Linh Quý.


 
Tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt, gỗ phủ sơn.


Đáng chú ý nhất ở chùa là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1 m, dày 1,15 m. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm. Tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 952 tay dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao 235 cm. Đầu rồng đội tòa sen cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm. Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc. Phật ngồi trên toà sen hồng qua bệ tượng hình vuông được trang trí bằng những nét chạm khắc cổ với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại như bao quát cả không gian vũ trụ. Ở đây có nhiều mô tip quen thuộc được trang trí ở chùa Việt Nam như hoa lá, cây cảnh cùng các con vật - trong đó có rồng - ngư với viên ngọc; lân với quả cầu; quạt hai vòng tròn, sóng nước, hoa sen,... 


Chùa Bút Tháp

Tượng Quan Âm hai tay chắp trước ngực, hai tay để trên đùi với những ngón tay đan chéo biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định; các chùm tay để trần từ sườn, vai, lưng, trên người; những tay được xếp vòng tròn từ lớn đến nhỏ hướng vào tâm (ngay sau gáy Phật) trong lòng mỗi bàn tay lại hiện lên một con mắt. Nhìn tổng thể tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay như những vòng hào quang toả ra từ tâm điểm.
Hai kiệt tác điêu khắc khác nữa làm thành một bộ ba tác phẩm danh bất hư truyền là tượng Tây Thiên Đông Độ Việt Nam lịch đại Tổ sư và tượng Thị Kính. Pho tượng Tuyết Sơn ở đây cũng là một kiệt tác của thế kỷ 17. Qua nhà tiền đường là đến nhà thiêu hương.
Ngoài ra, trong chùa có hơn 70 pho tượng gỗ được tạc trong tư thế quỳ, đứng, ngồi với nét mặt thành kính trông rất sinh động như pho tượng Kim Đồng - Ngọc Nữ,... còn tượng La Hán lại thể hiện cảm xúc nội tâm, mang nặng ý tưởng Phật giáo.


Phủ thờ nằm sau Phật điện là ngôi nhà 5 gian có hai pho tượng đáng chú ý. Hai pho tượng này là chân dung hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (nhà Lê) đầu đội vương miện nhưng khoác áo tu hành, và công chúa Ngọc Duyên. Cả hai pho tượng đều ngồi theo dáng toạ thiền.
Từ thượng điện, đi qua một chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn đến ngôi nhà gọi là Tích Thiện am. Trên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông hoa lá. Tích Thiện am là một ngôi nhà có ba tầng mái.
Trong Tích thiện am, có cây Cửu Phẩm Liên Hoa, là một tháp bằng gỗ 9 tầng, 8 mặt, có thể quay tròn quanh một trục, có gắn tượng Phật và chạm những cảnh dân gian hay lấy đề tài trong Phật thoại.
Tháp Báo Nghiêm

 
Tháp Báo Nghiêm chùa Bút Tháp

Chùa có tháp Báo Nghiêm thờ Hoà thượng Chuyết Chuyết, trông tháp giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05 m, năm tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh; ngoài tầng đáy rộng hơn, bốn tầng trên gần giống nhau, rộng 2 m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29 m. Ngoài kỹ thuật xây dựng đá, phần bệ tượng được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng dưới cùng của toà tháp này có mười ba bức chạm đá với lấy đề tài chủ yếu là các con thú. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.


29.  CHÙA SỦI - Bắc Ninh


Chùa Sủi có tên là Đại Dương Sùng Phúc tự, là một ngôi chùa cổ tại xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Thời Lý - Trần, các vua thường qua đây ngủ đêm để ngóng mộng, chờ thông điệp của thánh thần. Hiện tại ở chùa còn 1 chiếc khánh đá hơn nghìn năm tuổi.  Chùa vừa được trùng tu lại năm 2006, nằm trong cụm đình-chùa-đền (thờ Ỷ Lan nguyên phi).



Chùa Sủi được xây dựng từ rất sớm (không rõ cụ thể năm). Năm 1066, Nguyên phi Ỷ Lan về đây cầu tự sinh thái tử Càn Đức, rồi cho xây dựng lại và hoàn thành vào năm 1115[1].

chua sui ha noi

Chùa được xây dựng theo hướng phía trước có hình chim Chu Tước, có đường thiên lý thông xuống phía Nam, phía sau có hình chim Huyền vũ, có thôn gồm muôn nhà trấn bên ngoài, bên trái có hình rồng xanh trùng trùng hướng về, bên ngoài có hình hổ cuồn cuộn chầu tới.




Chùa xây theo kiểu chữ Đinh, gồm 7 gian tiền đường, 3 gian hậu cung và hai dãy hành lang (mỗi bên 7 gian), đầu hai hành lang giáp với tiền đường là 2 lầu tám mái treo chuông đồng, khánh đá.


chanh dien chua sui ha noi


Chùa có số lượng tượng lớn và có niên đại tạo tác từ thế kỷ 17, 18 và 19. Trong số 73 pho tượng cổ có nhiều tượng có giá trị thẩm mỹ cao, tiêu biểu cho nền nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lê, Nguyễn. Phong cách tạc tượng mang nhiều nét dân gian, có vẻ đẹp dung dị của nền nghệ thuật dân gian cực thịnh vào thế kỷ 17, 18.


 chu vi to su chua sui ha noi

 

Khánh đá lớn có từ năm Vĩnh Thịnh thứ 21 (1725), chuông đồng lớn treo trên lầu tám mái phía Tây mang niên hiệu Cảnh Thịnh (1800) thời Tây Sơn.
Chùa được trùng tu vào các năm: 1633, 1636, 1701, 1821 [2]





30. CHÙA ĐÀO XUYÊN - Bắc Ninh


Chùa Đào Xuyên tên chữ là “Thánh Ân tự”, ở thôn Đào Xuyên, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, Hà Nội.Chùa được xây dựng từ khá lâu, theo bia ở chùa cho biết thì năm 1635 chùa đã được tu tạo và được sửa chữa nhiều lần. Lần sau cùng vào năm Duy Tân 10 (1910) chùa đã được làm lại hoàn toàn.Chùa được kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”, có quy mô khá lớn. Chùa gồm nhà thiêu hương, thượng điện, tòa tam bảo, nhà tổ và các công trình phụ. Tòa tam bảo quay hướng đông nam, có kiến trúc kiểu chuôi vồ. Tiền đường có 7 gian 2 dĩ. Nhiều Bộ phận được chạm khắc tinh tế.



Chùa còn giữa được pho tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhân có niên đại thế kỷ 16. Tượng bằng gỗ mít, cao 1,35m (không kể bệ) ngồi trên bệ sen hình lục giác (nếu kể cả bệ thì cao 2,31m). Tượng có 42 tay lớn và 610 tay nhỏ. 42 tay lớn chìa ra phía trước và xung quanh với nhiều động tác, hình dáng khác nhau, tay thì cầm vật báu, tay thì bắt quyết, không tay nào giống tay nào. Còn 610 tay nhỏ thì xếp thành nhiều lớp hai bên sườn và phía sau, xếp vào nhau như những nan quạt, tạo nên một quầng tròn phía sau tượng, như một vòng hào quang tỏa sáng quanh người. Đầu tượng đội mũ pháp sư, được trang trí những hạt tròn, sơn son thếp vàng óng ánh góp phần làm tăng thêm uy linh và đức độ của Phật Bà Quan Âm. 
 

Mặt tượng đầy đặn, đôn hậu, mắt lim dim nhìn xuống như đang tập trung tinh thần vào điều gì đó. Mũi tượng thẳng, má bầu, miệng nhỏ, tai dài đeo hoa, tóc chảy dài ra phía sau. Dáng mặt của tượng là một phụ nữ Việt Nam. Tấm áo cà sa khoác trên người chảy dài xuống hai bên lẫn trong các nếp áo. Tượng trong tư thế ngồi yên tĩnh, thế “tham thiền nhập định” nhưng vẫn toát lên vẻ động của một tâm hồn sôi nổi. Những cánh tay sinh động với nhiều dáng, những nếp áo mềm mại chạy dài, phủ trên một tấm thân cân xứng, nở nang… đã thể hiện sức sống của mỗi con người, có những nét gần gũi với bóng dáng hiền dịu của các cô gái nông thôn khỏe mạnh. Tượng được tạc ngồi trên một tòa sen do con rồng đội, nổi lên trên mặt biển sóng nhấp nhô.

 

Tòa sen cao 0,50m gồm 13 cánh sen chính, 13 cánh sen phụ và 20 cánh cách điệu, bố trí xen kẽ thành 2 lớp trên, dưới. Rồng được thể hiện với bộ mặt dữ tợn, những cánh tay gân guốc với những chiếc móng sắc nhọn, mắt lồi nhìn thao láo ra phía trước, mồm rộng, mũi to căng phồng (Rồng ở dây tượng trưng cho loài ác quỷ ma vương, thế lực đen tối). 
 


Việc đội tòa sen của rồng biểu hiện sự quy phục Phật pháp. Về mặt thẩm mỹ, điều đó tạo nên sự tương phản giữa cái ác và cái thiện, góp phần làm tăng thêm vẻ nhân hậu, dịu dàng, thiện tâm và sự huyền diệu của Quan Âm. Bệ tượng cao 0,5m có mặt lục giác, được chia làm 3 phần, phần giữa thu hẹp. Trang trí trên bệ tượng là các hình mây lửa, sóng nước,… chính nhờ các trang trí này mà có thể đoán định tượng được tạo tác vào cuối thế kỷ 16. Chùa cũng còn nhiều tượng tạo tác vào thế kỷ 18 - 19.



31. CHÙA KEO -Bắc Ninh.

Tọa lạc: quốc lộ 181, phố chùa Keo, xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Làng Keo, có tên cổ là “Cổ Giao” thuộc huyện Long Biên, quận Giao Chỉ ngày xưa, nay thuộc xã Kim sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
 

Bởi làng xưa có nghề truyền thống nấu keo da trâu và nghề làm sơn gỗ, đặc biệt là sơn son thếp vàng, nên dân làng thường gọi là làng Keo, khi dân làng xây chùa lấy tên là chùa Keo, có tài liệu nói rằng ( trước kia thôn Giao tự và thôn Giao tất hợp nhất và gắn bó với nhau như keo, nên tên làng gọi là làng Keo). Chùa Keo còn có tên chữ là “Báo Ân Trùng Nghiêm tự” thờ bà Keo bà Pháp Vân là một tứ đại Phật Pháp thời xưa.

chua keo ha noi

Truyền Thuyết kể rằng; ngày xưa khi ở đất Luy Lâu đã tạc xong 4 pho tượng Phật là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện nhưng còn có việc tô tượng chưa xong, nhiều thợ ở các nơi đến sơn nhưng không làm được vì sơn cứ chảy tuột đi khi quét lên.
 
 

 Đến lượt Hiệp thợ Keo thấy một khúc gốc thừa khi tạc 4 pho tượng. Hiệp thợ Keo xin về, 4 tràng trai khiêng không nổi, nhưng chỉ 2 người thợ làng Keo khiêng rất nhẹ nhàng và đi thẳng về làng, thấy chuyện lạ, làng quyết định tạc tượng và pho tượng Pháp Vân đã ra đời giống hệt pho tượng ở chùa Dâu nhưng kích thước nhỏ hơn.

chau keo ha noi

Chùa có tất cả 47 pho tượng Phật, đều mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ 17 – 18, trong đó tượng bà Keo là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Chùa còn giữ 6 tấm bia đá, 1 cổ chuông được đúc thời Cảnh Thịnh (1794), 1 Khánh đồng, 8 Đạo sắc phong cùng nhiều đồ thờ tự, có một số cổ vật mang phong cách thời nhà Lê.  

chua keo ha noi

Chùa được trùng tu nhiều lần nên mang nhiều phong cách pha trộn. Tam quan được xây bằng gạch theo kiểu nghi môn thời Nguyễn, tòa Thượng điện là kiểu nhà 4 mái, các góc đao nay chỉ còn trang trí đao đơn, hình cách điệu, kiến trúc mở cửa đầu hồi (ít gặp ở những ngôi chùa cổ), bộ vì tòa Thượng điện làm kiểu chồng giường, đầu các con giường điểm xuyết chút hoa có phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVII.
 

Tòa Hậu cung và tháp Tam phẩm mang phong cách thời Nguyễn. Đáng lưu ý là tượng Quan Am Thiên Thủ Thiên Nhãn, là sản phẩm của thế kỷ XVII. Chùa còn lưu giữ được tấm bia thời Hoàng Định (1616).

chua keo ha noi

 
 

 Chùa trải qua nhiều đời trụ trì song sách sử trong chùa không còn. Năm 1995, Thành hội Phật giáo Hà Nội bổ nhiệm Đại đức Quảng Thiện trụ trì chùa Keo. Năm 1997, sư trụ trì trùng tu khu tháp Tổ, năm1998 Thượng điện, năm 2002, Nhà Tổ, năm 2006, nhà Mẫu và Tam bảo. Tháng 3/2009, tất cả các hạng mục công trình đều hoàn tất.


32. CHÙA TRĂM GIAN -Bắc Ninh

Tại Việt Nam có 4 chùa Trăm Gian:Chùa Trăm Gian ở tỉnh Bắc Ninh;Chùa Trăm Gian ở huyện Chương Mỹ, , Bắc Ninh ; Chùa Trăm Gian ở làng Láng, quận Đống Đa, Hà Nội và Chùa Trăm Gian ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương

Cảm Ứng Tự còn gọi là Chùa Trăm Gian là một ngôi chùa lịch sử ở xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh.
Chùa Trăm Gian được xây dựng vào khoảng thế kỷ 11. Đây là một trong những ngôi chùa lâu đời của nền Phật giáo Việt Nam. Công trình kiến trúc tiêu biểu này đã được xếp hạng "Di tích lịch sử văn hóa quốc gia" vào năm 1992.[1]
Tương truyền ngày xưa khi chùa còn đủ 100 gian thì ngôi chùa này là nơi hội tụ của rất nhiều các linh vật quý khác nhau, như: Rùa, Rồng, Nghê...  Những năm 1693-1697 chùa được trùng tu và mở rộng với nhiều hạng mục công trình, trong chùa có hàng trăm pho tượng sơn son, thếp vàng lộng lẫy. Năm 1826, chùa được xây dựng hoàn chỉnh 100 gian, 18 hạng mục công trình trở nên ngôi chùa đẹp vào bậc nhất ở vùng Kinh Bắc.

  Trong chiến tranh, năm 1972, nhiều công trình, hạng mục trong chùa bị đổ nát, nhiều tượng Phật bị cháy hỏng. Các năm 1975 và 2000, nhân dân xã Tam Sơn đã đóng góp sức người và tiền của tu bổ di tích với qui mô kiến trúc gần như nguyên vẹn.



Chùa Cảm Ứng hiện còn lưu giữ được nhiều pho tượng Phật, cổ vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật đặc sắc như Khánh đá tạo tác năm 1672, cây hương đá dựng khắc năm 1697, chuông đồng đúc năm 1826 và tấm bia đá “Tam Sơn xã đăng khoa bi kí" dựng khắc năm 1902.

Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sư dân tộc, chùa Cảm Ứng đã được bảo quản, trùng tu, tôn tạo với đầy đủ dáng vẻ cổ xưa. Chùa là báu vật của người Bắc Ninh-Kinh Bắc, quê hương của Vương triều Lý, một vương triều vàng son bậc nhất trong các thời kỳ phong kiến Việt Nam.


33. CHÙA TRĂM GIAN-  Chương Mỹ (Hà Đông)


Chùa Diên Phúc ở thôn Khuyến Lương, xã Trần Phú, huyện Thanh Trì,tỉnh Hà Đông , nay thuộc quận Hoàng Mai, Hà Nội. Chùa được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Trên cột đá “Thạch trụ hương” dựng năm 1730 ghi việc dân làng đã xây thêm gác chuông và dựng cột đá trước chùa. Chuông đồng cổ của chùa đã bị Nguyễn Hữu Chỉnh ra lệnh thu về đúc vũ khí, đến năm 1821 chuông Diên Khánh tự chung được đúc mới, 15 năm sau đúc thêm chiếc khánh lớn ở nhà Mẫu.



Ngoài cùng là cổng gạch xây cuốn cửa vòm, 2 tầng mái nhỏ góc đao uốn cong, trang trí tích Thầy trò
Đường Tăng sang Tây Trúc lấy kinh. Chùa có kiến trúc theo chữ Đinh. Tiền đường có 2 tầng 4 mái, 5 gian 2 dĩ. Thượng điện 4 gian, 2 tầng 4 mái. Sau thượng điện là nhà thờ Mẫu, thờ Tổ gồm 9 gian. Ngoài khu kiến trúc chính của chùa còn có hai khu vườn tháp mộ, mỗi khu 3 ngọn tháp 3 tầng.

 

Các pho tượng trong chùa được quy hoạch theo dấu ấn Phật điện thời Lê. Di vật trong chùa còn 7 bức cửa võng, 6 bức y môn, 1 bia dựng năm 1935, 1 khánh đồng đúc năm 1839, 32 pho tượng tạc vào thế kỷ XVIII, XIX, 5 bức hoành phi, 9 đôi câu đối... Ngôi chùa này ra đời từ khoảng năm 1185. Đây là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao, được xếp hạng Di tích quốc gia từ hơn 40 năm qua. Qua tìm hiểu, chùa Trăm Gian đã "bị" trùng tu kiểu phá di tích nhiều lần. Tuy nhiên chưa lần nào chùa Trăm Gian bị làm hỏng nghiêm trọng như lần này.  Sau đây là hình ảnh chùa cũ trước khi được "trùng tu" khoảng 2012.





Chùa Trăm Gian (Chương Mỹ, Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội) được khởi dựng từ đời Lý Cao Tông (1176-1210) đã bị phá dỡ Nhà tổ và Gác khánh để xây lại mới trong những ngày cuối tháng 8 năm 2012 – thật quá đau xót cho một di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
Chùa có tên là Quảng Nghiêm tự, ở xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ. Xã Tiên Phương xưa kia là xã Tiên Lữ nên chùa này cũng thường được gọi là chùa Tiên Lữ. Sở dĩ chùa có tên là Trăm Gian vì quần thể kiến trúc ở đây có đến 104 gian nhà.


Theo một số tài liệu, chùa được xây dựng từ thời Lý Cao Tông (1176-1210). Nhưng ngôi chùa lớn với quy mô như hiện nay là đã được trùng tu và xây dựng thêm qua nhiều triều đại.
Chùa có 3 cụm kiến trúc chính. Cụm thứ nhất ở cửa vào, gồm 2 quán, trước đây dùng làm nơi đánh cờ người trong ngày hội. Gần đấy có ngôi nhà có tên là Giá Ngự, vì là nơi đặt kiệu “thánh” trong lễ rước thánh, đó cũng là nơi xem rối nước diễn trên hồ.


 

Cụm thứ hai là tòa gác chuông đẹp, có 2 tầng mái. Tầng trên treo quả chuông đồng đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) có bài minh của tiến sĩ Trần Bá Lãm. Qua các bậc đá có lan can chạm rồng, ta đến cụm kiến trúc thứ ba là ngôi chùa chính, gồm bái đường, nhà thiêu hương và thượng điện. Chùa có hơn 150 pho tượng, phần lớn bằng gỗ, một ít đắp bằng đất. Đặc biệt ở gian giữa thượng điện có một bệ bằng đất nung đỏ hình khối chữ nhật, giống kiểu các bệ đá thời Trần.

Trên là đài sen, xung quanh trang trí nhiều hình động vật và hoa lá, bốn góc có hình chim thần Garuda. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bệ này có niên đại thời Mạc. Trên bệ đặt các tượng Phật Tam thế. Ở gian bên trái, phía dưới tượng Quan Âm tống tử, là tượng đô đốc Đặng Tiến Đông - một tướng lĩnh Tây Sơn mà sự tích được ghi lại trên khối bia vuông bốn mặt đặt ở bái đường. Bài bia do Phan Huy Ích soạn và Ngô Thì Nhậm nhuận sắc. Đây chỉ là một bản sao năm 1927, chép lại từ bài bia soạn năm 1794. Gian bên phải là khám thờ “đức Thánh Bối” Nguyễn Bình An, vị thánh đã được thờ ở chùa Bối Khê. Tượng thánh làm bằng mây đan ngoài bọc vải phủ sơn.
 Hai bên là dãy hành lang. Trong cùng là nhà thờ Tổ. Ở giữa còn có gác trống, treo một chiếc trống lớn và một khánh đồng đúc năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749).

 

Toàn bộ công trình nhà Tổ, gác Khánh và bậc cấp từ gác chuông lên sân tiền đường đã bị nhà chùa dỡ bỏ hoàn toàn và đang được xây mới. Nhà Tổ cơ bản đã được lợp mái, gác Khánh đã lắp dựng xong bộ khung gỗ, ngổn ngang gạch, đá, ngói từ trong ra ngoài chùa.

Đây là  hình ảnh cận cảnh ngôi chùa bị phá dỡ, xây mới:

Toàn bộ gác Khánh và nhà Tổ cổ kính bị đập bỏ, thay bằng những công trình mới.

Ngôi chùa giờ ngổn ngang gạch, đá và ngói.

Cả lối đi lên các bậc đá dẫn vào chùa Trăm Gian cũng vậy.

Nền nhà bị đào lên, lớp ngói cũ rêu phong mang đậm nét cổ kính xưa giờ thay bằng ngói mới đỏ chót.

Các bức phù điêu La Hán này đã được sơn vẽ lại từ hơn chục năm nay… Hiếm hoi lắm mới tìm thấy những bức phù điêu của ngôi chùa còn nguyên nét xưa cũ, chưa có dấu vết của sự tô vẽ như thế này.


Ngôi chùa giờ lẫn lộn cũ-mới, mái ngói rêu phong cổ kính hàng trăm năm lẫn lộn giữa màu gạch, ngói, sơn mới nguyên, đỏ chót..

đã được vứt bỏ toàn bộ thay bằng những nét chạm trổ vô hồn, vô cảm.

Bậc lên xuống gác Khánh nham nhở thế này.


Mái đình cong vút giờ đây xen lẫn với mái bằng, mái cụt…

 Đá xanh ôm trụ cột xưa giờ thay bằng những phiến đá được cắt xẻ vô hồn.

 Tấm bia đá dựng ở một xó tường.
Cả ngôi chùa dường như chỉ còn tháp Chuông này giữ được vẻ cổ kính. 



34. CHÙA DÂU - Hà Đông

Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng (延應寺), Pháp Vân (法雲寺), hay Cổ Châu, là một ngôi chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Duyên ứng tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại.[1]. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa quốc gia.



Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân (法雲寺, "mây pháp"), chùa Đậu thờ Pháp Vũ (法雨寺, "mưa pháp"), chùa Tướng thờ Pháp Lôi (法雷寺, "sấm pháp"), chùa Dàn thờ Pháp Điện (法電報寺 "chớp pháp") và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ các nữ thần.
Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy trong chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu.



Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền ở Việt Nam. Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam.


Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp.[1] Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê.


Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.




Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim ĐồngNgọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ 18.



Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.

 

Có câu thơ lưu truyền dân gian:.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Ngày hội chùa Dâu được tổ chức rất long trọng và quy mô, tuyến hành hương về nơi đất Phật còn mở rộng tới chùa Phúc Nghiêm - chùa Tổ - nơi thờ Phật Mẫu Man Nương.

 
 Tiền diện chùa Dâu nhìn từ sân ngoài

 
Tháp Hòa Phong

 
Bái đường



 35. CHÙA BỐI KHÊ -Hà Đông

Chùa Bối Khê còn có tên là chùa Đại Bi, tọa lạc  ở làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai,  tỉnh Hà Đông nay là thành phố Hà Nội. Chùa được dựng năm 1382, dưới thời Trần, đã qua nhiều lần tu sửa. Chùa Bối Khê không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị về kiến trúc. Ngoài chư Phật, chùa còn thờ Minh Đức chân nhân đời Trần. Ngài họ Nguyễn, húy là Nữ, tự Bình An, tu hành đắc đạo, tăng đồ theo thụ giáo rất đông. Cũng có tài liệu nói chùa được xây dựng vào năm 1338,  trong chùa có thờ Đức Thánh Bối tức vị tướng công Nguyễn Đình An là người địa phương đã có công đánh bại quân xâm lược phương Bắc.



 Kiến trúc chùa rất đặc biệt, trên diện tích khoảng 5.000m2, xung quanh có tường bao..khác với các ngôi chùa ở miền Bắc Tiền đường, hành lang tả hữu, nhà tam bảo đều bằng gỗ dựng theo hình chữ Quốc. Hậu đường được kết hợp với điện thờ Thánh có hình chữ Công. Toàn bộ kiến trúc được sắp xếp cân xứng hai bên theo một trục chính.


Trước cổng chùa là sân đất rộng rãi, có cây đề, cây đa cổ thụ, đường kính sát gốc, ba vòng tay người ôm không xuể. Cổng chùa có 5 cửa. Phía trên cửa chính có dòng chữ 大悲寺 - Đại Bi Tự. Qua cổng chùa là chiếc cầu bằng gạch vắt qua hào nước hẹp, dấu tích của dòng sông Đỗ Động. Đi qua cầu là tam quan cao hai tầng tám mái. Tầng trên treo quả chuông lớn, đường kính 60cm, cao 1m.


Qua khỏi gác chuông là sân gạch rộng chừng 400m², trong sân có trồng cây đại, móng rồng, cây cảnh và hai voi đá chầu. Hai bên sân là hai hồ nước, một trồng sen và một làm giếng nước sinh hoạt cho dân làng trước đây, nay trở thành nơi biểu diễn văn nghệ trên mặt hồ trong dịp hội chùa.


Toà Tam Bảo còn gọi là Thượng điện, thờ Phật, Pháp, Tăng, có diện tích 10x15 m, cấu tạo theo 4 hàng cột, mỗi hàng 4 chiếc, riêng thềm điện có 6 cột đỡ mái, chia thành 7 gian. Hai vì kèo giữa mang đậm phong cách nghệ thuật thời Trần. Các đầu bẩy đỡ mái phía ngoài được chạm khắc hình rồng. Đầu bẩy góc trái phía ngoài chạm hình chim thần Garuda. Bên phải Tam Bảo là nhà bia dựng năm 1450 ghi sự tích Đức Thánh Bối. Bên trái là nhà bia ghi tên những người góp của để trùng tu chùa trong từng thời kỳ. Tam Bảo được trùng tu nhiều lần mới được lộng lẫy như hôm nay, còn để lại dấu vết trang trí kiến trúc của các thời đại từ thế kỷ 15, 16, 17, 18.



Tòa tam bảo nối với tiền đường, đều trên một nền cao hơn so với dãy hành lang bao quanh.

Sau Tam Bảo là hậu cung thờ Thánh Bối Khê Nguyễn Đình An, hai tầng tám mái. Có những kiến trúc chạm khắc theo chủ đề tứ linh, tứ quý và những hoạ tiết hình học có tính chất trang trí nhiều hơn, độ bền chắc thì không bằng nhà Tam Bảo.
Hiện giờ thì người ta đã trùng tu gần như toàn bộ, tuy vậy đường nét chung cũng vẫn gợi lên vẻ cổ kính. Chùa có ngũ môn thật đồ sộ, cây đa cũng tham gia vào tạo phông cảnh cho hoàn thiện.


Sau ngũ môn đến một con lạch có cầu bắc qua. Thì ra cái ngũ môn chỉ là phân chia không gian ước lệ tựa như một cái cổng làng. Nhà dân ở quây quần quanh chùa phía trong. Gác chuông và hai cổng ngách mới thực sự là tam quan ra vào chùa, gác chuông đã trùng tu lại có vẻ cứng quá. Mùa hè thì đây có sen với súng nở.



Những cây dừa ở đây gợi một cảm giác,  có lẽ vì dấu ấn miền Trung của chúng. Người ta cho rằng dừa vốn được mang ra Đại Việt cùng với các tù binh Chàm từ thế kỷ XII-XIII. Vùng phía Tây Thăng Long chạy từ Cầu Giấy qua Kẻ Sở, Đăm, lên đến Sơn Tây (tức vùng Hà Tây) vốn là đất lưu trú của tù binh Chàm.
 Tòa thượng điện, có kết cấu chồng rường giống gác chuông chùa Keo Thái Bình. Ở bên cạnh là cây sen đất, vốn được tuyên truyền mạnh dạo mấy năm gần đây như là bằng chứng duy lý của câu ca dao "Hôm qua tát nước đầu đình. Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen". Hoa sen nở vào tháng 4-6 âm lịch, nghĩa là đang nở đây! Nhưng khi mình đến thì đang vẫn mùa rét nên không có. Hoa này xem ảnh thì giống hoa trà hoặc hải đường.


Đầu bảy góc mái đao có hình con phượng (hay chim thần) từ thời Trần, đã bị hư hỏng.


Hình dáng, đường nét là đẹp.


Lan can gạch đắp trang trí cũng đẹp, nhưng nếu đừng quét vôi nhem nhuốc thì đẹp hơn



Kết quả là kiến trúc và điêu khắc người Việt thừa hưởng được rất nhiều thành tựu rực rỡ, mang lại một đặc điểm khác biệt với ảnh hưởng Trung Hoa. Nhưng về sau khi đã chinh phục toàn bộ vương quốc Chàm thì ảnh hưởng Trung Hoa càng ngày càng thắng thế và dấu ấn Chàm mờ hẳn. Người ta vẫn nói, mỹ thuật đời Lý là mỹ thuật khởi nguyên thời tự chủ nhưng đã đạt được ngay phẩm chất cổ điển. Mỹ thuật đời Trần là bước tiếp nối. Chắc chẳn khẳng định được một điều là nhờ mỹ thuật Chàm mà nghệ thuật hai đời Lý-Trần có được kết quả đó.




Qủa chuông đúc năm 1844 đời Thiệu Trị.


Khi trùng tu, họ giữ lại bức cốn cũ hình chữ Thọ, mang đặc trưng kiến trúc thời Nguyễn.


Sân chùa có một cây hoàng lan rất to. Khung cảnh thật đẹp và thanh bình. Một trong những cái sân chùa đẹp nhất nước mình cũng nên.


Có thể thấy hình rồng đời Mạc có những nét đặc trưng: uốn khúc ít, thân mảnh, nhịp điệu dứt khoát. Đời Lê Trung Hưng sau đó và Nguyễn thì con rồng cuộn khúc nhiều hơn, nhiều râu ria và mây hơn.


Có thể thấy ngay hình rồng đời Nguyễn trên bức cốn trên: tua tủa những râu và vân mây, chứ không thấy dáng vẻ chuyển động của con rồng. Hình thức cột và kẻ chuyền cũng là của thời Nguyễn, cầu kỳ hơn thời trước ở chỗ pha chế nhiều hình thức kết cấu: kẻ chuyền không thẳng mà võng xuống làm dáng, cột sinh ra hình chum đá chân quỳ ở dưới. Các hoa văn dập lại các công thức tứ quý hóa long chứ không làm những diềm hoa cúc hay hoa sen như thời trước.


Cái hiên này cao ráo và sáng sủa chứ không tối và thấp, đó là nhờ xây trên một nền cao.


Đây là cái nền cấp xây từ đời Trần. Bằng chứng là còn vài đoạn có gạch nung trang trí từ thời đó. Những họa tiết đặc trưng như hình rồng, sóng nước...


Ở đây có những hình con ít gặp như hươu. Còn con gì mình như có đốm, đuôi thì như thỏ mà đầu thì rồng? Hàng gạch đỏ sẫm ở dưới là gạch mới trùng tu đặt bên Bát Tràng làm. Nhưng lại không sắc nét bằng. Ở Mỹ Sơn có vấn đề: gạch phục chế lại nhanh bị rêu và phong hóa hơn gạch cổ. Không hiểu gạch ngày xưa cho gì vào mà nghìn năm vẫn tươi?




Những bức cốn hiên ở tiền đường cũng có những tích đặc sắc như Đường Tăng đi Tây Trúc thỉnh kinh. Ở bức trên, có Tôn Ngộ Không cân đẩu vân trên cùng, nhưng không hiểu Trư Bát Giới là tay nào, người gánh đồ ắt là Sa Tăng. Mấy kẻ còn lại như là yêu quái, đang rình rập. Nét chạm khắc ở đây thực ra không tốt bằng các đình làng, hơi có vẻ mỹ nghệ thành thị.


Hai con trâu húc nhau, có quả lấm lưng trắng bụng. Mấy cái cây mọc trên đá chạm hình đặc sệt phong cách tranh Hàng Trống.


Cốn ở bờ thoải tam bảo, có thể thấy các đời gỗ trùng tu khác nhau.


Trong tam bảo có hệ thống bệ tượng và đèn đá từ thời Trần Phế Đế (1382) rất đẹp. Bệ này giống với bệ ở chùa Thầy.


 Bốn góc là bốn con chim thần Garuda, bên trên là những cánh sen chạm rất sắc nét.


Một viên đá chạm hình rồng đặc trưng thời Trần, có nét kế thừa hình thời Lý - kiểu rồng giun, không có vẩy. Nhịp điệu cuồn cuộn, các hoa văn bố trí thoáng, không dày đặc như thời sau. Liên hệ với thức cột cổ điển Hy Lạp, ban đầu thì duyên dáng với Ionic hay Doric, cầu kỳ hơn có Corinth, về sau La Mã phát triển thành Composite siêu cầu kỳ, mà đến thời Baroque thì quá tả.


Hệ thống tượng này thấy có cả tu sĩ, võ sĩ lẫn quan. Hình thức thô mộc mang đậm nét bình dân.


Trong khi đó pho tương này (Ngọc Hoàng hay Đức Ông?) là một hình thức cao cấp và tinh vi hơn hẳn.


Trên cao nhất của bệ đá là tượng Quan Âm cứu khổ cứu nạn, có 12 tay, tạc thời Mạc.


Bức tượng có vẻ đẹp vừa cao sang vừa giản dị, trong một cái vỏ kiến trúc đẹp. Có thể thấy phía trước có cây hương đá có những chạm khắc tinh xảo.


Cây hương án này cũng được cho là tạc thời Trần cùng với cái bệ, nhưng cảm giác là nó mang nhiều nét phong cách thời sau này hơn. Phía trên nóc là bộ vì thời Trần, có ván hình lá đề kẹp giữa hai cái bụng lợn (tức là hai cái xà ngắn có hình như cái bụng lợn). Hai xà này chồng lên nhau bằng các con kê và cột ngắn, như ở chùa Thái Lạc (Văn Lâm, Hưng Yên), cũng thời Trần.


Bức tượng Quan Âm Thị Kính này thì xấu. Cái núi đất ở dưới lại được sơn màu xanh đỏ nguệch ngoạc.


Dãy tượng Tổ đặt rải ra mỗi vị một gian, trông hơi hiu quạnh.


Vị này trông thật trẻ, dáng ngồi rất nho nhã.




Hình dáng, đường nét là đẹp nhưng sao người ta sơn lắm màu lổn nhổn như bôi thuốc đỏ thuốc tím loạn xạ thế chứ?



Lan can gạch đắp trang trí cũng đẹp, nhưng nếu đừng quét vôi nhem nhuốc thế thì có phải ngon không?





36. CHÙA BỒ ĐỀ-  Hà Đông

Chùa Bồ Đề nằm ở phố Phú Viên, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội (trước kia thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội- xưa là tỉnh Hà Đông), cách bờ bắc cầu Chương Dương khoảng 500m về phía Nam. Nơi chùa chính thờ Phật pháp, vương triều nhà Trần, tam toà thánh Mẫu.

 

Nơi đây là bến Bồ Đề, nơi Lê Lợi đóng quân đánh thành Đông Quan, đánh đuổi quân Minh xâm lược.Chùa Bồ Đề có tên chữ là Thiên Sơn. Tấm bia cổ dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614) đời Lê Kính Tông có chép lại việc dựng lại chùa và ghi rõ “đại công đức Bồ Đề” của vua Lê Thái Tổ. Chùa chỉ còn tòa thượng 5 gian xây trên nền cao, dáng bề thế, cổ kính. Bồ Đề hiện nay là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Sở dĩ gọi là “Bồ Đề” vì xa xưa trong làng có hai cây bồ đề cao, nổi bật giữa những làng quê ven sông Hồng, ngang đỉnh tháp chùa Báo Thiên ở trong Kinh thành Thăng Long ở bên kia sông. Chùa Bồ Đề còn có tên gọi là Thiên Sơn tự. Chùa toạ lạc tại thôn Phú Yên, xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, cách bờ Bắc cầu Chương Dương khoảng 500m về hướng Nam, nay thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Đây là một ngôi chùa nữ và cũng là mái ấm tình thương đùm bọc, cưu mang trẻ mồ côi.


Tương truyền chùa được xây trên đất dinh Bồ Đề của Lê Lợi khi vua bao vây thành Đông Quan năm 1472. Các tài liệu lịch sử còn ghi lại là: "Vua làm lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô, cao bằng tháp Báo Thiên, hàng ngày ngự trên lầu quan sát vào trong thành xem giặc làm gì".  Thế nhưng, cũng có nhiếu ý kiến cho rằng chùa được xây từ cuối đời nhà Trần, trên một gò đất cao gọi là Núi Trời (nên còn có tên gọi là Thiên Sơn). Sau này, do bị chiến tranh tàn phá nên năm 1614, chùa được trùng tu tôn tạo trên nền chùa cũ và công đức khắc in vào hai quyển Pháp Hoa kinh để lưu hành. Đến giữa thế kỉ XVIII, chùa lại tiếp tục bị chiến tranh huỷ hoại. Năm Giáp Tuất đời Tự Đức 27 (1874), đại sư Thích Nguyên Biểu, tự hiệu Nhất Thiết đại sư (1835 - 1906) đến trụ trì và ngài đã trùng tu, tôn tạo trên nền chùa cũ gồm thượng điện rộng 5 gian, cho thỉnh thêm tượng Phật mới, chùa Hộ, nhà Thiêu hương, nhà Pháp bảo và cửa Tam quan.   

37. CHÙA THANH AM-  Hà Đông

Chùa Thanh Am có tên là Đng Linh tự, là một ngôi chùa cổ tại số 76, Tổ 24 phố Thanh Am, phường Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội, mà xưa thuộc tỉnh Hà Đông. . Động Linh tự thuộc làng Việt cổ Thanh Am, trong quần thể di tích Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Làng Thanh Am do Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa con cháu và dân làng tới định cư ở đây và xây dựng thành, với tên lúc đầu là làng Hoàng Am.


Chùa Động Linh (Chùa Thanh Am)

Sự cổ kính và hoành tráng của Động Linh tự chỉ còn lại ít nhiều trên các tấm bia đá và đặc biệt là quả chuông được chế đúc dưới thời Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ nhất (1793) và bia Hậu Phật có niên hiệu Gia Long thứ hai (1803).



Quả chuông được đúc dưới thời Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ nhất (1793) là di vật quý giá còn lại của Chùa. Chuông cao 0.82m; nếu kể cả phần chót trên cùng là 1,20m; đường kính 0,57m; chu vi 1,57m. Quai chuông hình con Bồ Lao (một loài vật giống rồng, bơi lướt trên mặt biển).

Chùa được tôn tạo lại năm 2002, hoàn thành vào ngày 20 tháng 4 năm Quý Mùi (2003). Hoàn thành nhà Tổ ngày 15 tháng 11 năm Quý Mùi (2003).





38. CHÙA KHUYẾN LƯƠNG-  HàĐông


Chùa Khuyến Lương còn có tên là chùa Diên Phúc ở thôn Khuyến Lương, xã Trần Phú, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Chùa được xây dựng vào khoảng đầu thế kỉ XVIII. 
 
Trên cột đá Thạch trụ hương dựng năm 1739 ghi việc dân làng đã xây thêm gác chuông và dựng cột đá trước chùa. Chuông đồng cổ của chùa đã bị Nguyễn Hữu Chỉnh ra lệnh thu về đúc vũ khí. Đến năm 1821, chuông Diên Khánh tự chung được đúc mới, 15 năm sau lại đúc thêm một chiếc khánh lớn ở nhà Mẫu. 
Chùa Khuyến Lương
Ngoài cùng là cổng gạch xây cuốn cửa vòm, 2 tầng mái nhỏ góc đao uốn cong, trang trí tích Thầy trò Đường Tăng sang Tây Trúc lấy kinh. Chùa có kiến trúc theo chữ Đinh. Tiền đường có 2 tầng 4 mái, 5 gian 2 dĩ. Thượng điện 4 gian, 2 tầng 4 mái. Sau thượng điện là nhà thờ Mẫu, thờ Tổ gồm 9 gian. Ngoài khu kiến trúc chính của chùa còn có hai khu vườn tháp mộ, mỗi khu 3 ngọn tháp 3 tầng.
 
Các pho tượng trong chùa được quy hoạch theo dấu ấn Phật điện thời Lê. Di vật trong chùa còn 7 bức cửa võng, 6 bức y môn, 1 bia dựng năm 1935, 1 khánh đồng đúc năm 1839, 32 pho tượng tạc vào thế kỷ XVIII, XIX, 5 bức hoành phi, 9 đôi câu đối...



39.QUẦN THỂ CHÙA HƯƠNG-  Hà  Đông


Chùa Hương là tên tắt của Hương Tích hay Hương Sơn. Tại Việt Nam có hai chùa trùng tên.
- Chùa Hương Tích ở tỉnh Hà Tĩnh toạ lạc trên đỉnh núi Hồng Lĩnh thuộc xã Thiên Lộc huyện Can Lộc.
- Chùa Hương Tích ở Hà Đông thật ra chỉ là một "phiên bản" đầy ý nghĩa của chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh. Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Đông từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ.

Chùa Hương-Hà Đông

Theo truyền thuyết, vùng núi có hang động này được tìm thấy cách đây hơn hai nghìn năm .
Đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã có am thờ Phật dựng trên mảnh đất chùa Thiên Trù. Theo sách "Hương Sơn Thiên Trù thiên phú" thì chùa Hương được xây dựng từ đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, (1680-1705). Bia tại chùa Thiên Trù có ghi rằng việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo điện của chùa được thực hiện vào năm 1686.
Các ngôi chùa chính được xây dựng với quy mô lớn vào khoảng cuối thế kỷ 17. Cho đến đầu thế kỷ 20, trong khu vực này đã có hơn 100 ngôi chùa.


 Chùa Hương Tích-  Hà Đông

 
Có bốn con đường đến chùa Hương, và trên bốn tuyến này có nhiều chùa:

  • Tuyến Hương Tích: Đền Trình – Chùa Thiên Trù – Động Tiên Sơn – Chùa Giải Oan – Đền Trần Song – Động Hương Tích – Chùa Hinh Bồng.
  • Tuyến Thanh Sơn: Chùa Thanh Sơn – Động Hương Đài
  • Tuyến Long Vân: Chùa Long Vân – Động Long Vân – Hang Sũng Sàm
  • Tuyến Tuyết Sơn: Chùa Bảo Đài – Động Chùa Cá – Động Tuyết Sơn

  + Chùa Hương là cách nói trong dân gian, trên thực tế chùa Hương hay Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa - tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm chùa Hương nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nằm ven bờ phải sông Đáy.

Trung tâm của cụm đền chùa tại vùng này chính là chùa Hương nằm trong động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong.Hội chùa Hương hay Trẩy hội chùa Hương là một lễ hội của Việt Nam, nằm ở Mỹ Đức, Hà Nội. Trong khu thắng cảnh Hương Sơn, được xem hành trình về một miền đất Phật - nơi Quan Thế Âm Bồ Tát ứng hiện tu hành. Đây là một lễ hội lớn, cùng với lễ hội chùa Yên Tửlễ hội chùa Bái Đính là những lễ hội gây được tiếng vang lớn ở miền Bắc, thể hiện ở sự quá tải số lượng các phật tử tham gia hành hương.

 
 

+ CHÙA THIÊN TRÙ  :

Chùa Thiên Trù (có nghĩa là Bếp Trời), còn gọi là chùa Trò hay chùa Ngoài, nằm trong quần thể Khu danh thắng Hương Sơn, thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.Chùa Thiên Trù toạ lạc trên thềm núi Lão, được xây dựng từ đời Vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497). Theo một số sử ký còn lưu lại có chuyện kể rằng trong một chuyến tuần thú phương nam lần thứ hai, Vua Lê Thánh Tông cùng tướng sĩ qua vùng núi Hương Sơn nghỉ lại ở thung lũng núi Lão và cho quân lính thổi cơm ăn.
File:VN Chua Huong3 tango7174.JPG
 Cổng chùa Thiên Trù

Trong lúc thưởng ngoại cảnh sắc thiên nhiên, Vua xem thiên văn thấy vùng này ở vào vị trí của sao Thiên Trù (Bếp trời một chòm sao chủ về ăn uống) nên nhân đấy nhà Vua đặt tên cho thung lũng này là Thiên Trù. Sau lần đó Sư Tổ Viên quang chân nhân, quốc phong Thựơng Lâm Viện – Tăng lục Tăng lục Ty Hoà Thượng Viên Giác Tôn Giả, chống gậy thiền vượt suối trèo non cùng cư dân vào dựng thảo am thờ phật, khai sáng thiền môn Thiên Trù Tự. Tiếp sau Tổ Sư Trần Đạo Viên Quang Chân Nhân, Tổ Sư Nguyệt Đường kế nhiệm trụ trì. Rồi đến Tổ Trần Huyền Đạo Thắng: Cụ Hải Dao. Tổ Hải Viên, năm mậu tuất (1802) tổ Hải Viên xây dựng năm gian tiền đường bằng gỗ lim lợp ngói thờ Phật. Kế tiếp là Tổ Tịch Đĩnh trụ trì.


 
+ Chùa Giải Oan:
Vẫn trên đường vào chùa Trong, rẽ tay trái là chùa Giải Oan. Chùa do Sư Tổ Thông Dụng huý Thám pháp danh Cương Trực đời thứ 2 khai sáng. Chùa được dựng ở lưng chừng núi Long Tuyền, lúc đầu chỉ là một thảo am nhỏ bằng tre gỗ đơn sơ. Chùa đã qua trùng tu vào các năm 1928, 1937. Năm 1995, chùa được tu bổ thêm am Từ Vân, kè lại sân chùa.

 
 Chùa Hương

Chùa là nơi thờ phụng đức Bồ Tát Quan Thế Âm. Hiện nay am Từ Vân còn lưu giữ được pho tượng Tứ Tý Quan Âm được đúc vào thế kỷ 18. Trong chùa có giếng Thanh Trì trong suốt không bao giờ cạn. Tương truyền đây chính là nơi đức Chúa Ba (Bồ Tát Quan Âm Diệu Thiện) đã dùng để tắm, tẩy sạch bụi trần ai, trước khi đi vào cõi phật. Từ đó giếng này được gọi là giếng Giải Oan, khách đi lễ thường múc nước nước uống để cầu mong giải thoát khỏi mọi nỗi oan ức trên đời.
Chùa Giải Oan có kiến trúc hài hoà, nằm giữa cảnh thiên nhiên thanh tao u tịch, càng làm tăng thêm vẻ tôn nghiêm, huyền bí. Du khách đến đây được uống dòng nước mát lạnh của giếng Thanh Trì, như quên đi những ưu tư của đời thường khi hành hương về cõi Phật.

+Động Hương Tích

Từ chùa Giải Oan, du khách lại tiếp tục cuộc hành trình khoảng 2,5km lên động vào chùa Hương Tích (còn gọi là chùa Trong). Ðường lên động có nhiều chỗ quanh co, lúc lên dốc, lúc xuống dốc. Càng gần tới động thì dốc càng cao. Lên tới bậc đá cao nhất đứng nhìn xuống, du khách sẽ nhìn thấy một vòm hang rộng, sâu, hun hút trông giống như hàm của một con rồng, đó là động Hương Tích.


Qua cổng, đi xuống 120 bậc đá là vào tới lòng động. Ngay ở khoảng giữa, gần cửa ra, vào, có một nhũ đá gọi là "đụn gạo". Ði sâu vào một chút có một lối lên Trời và một lối xuống âm phủ. Trong động, những măng đá, nhũ đá rủ xuống tạo thành muôn hình vạn dạng, người xưa thoả sức để đặt tên: nong tằm, né kén, chuồng lợn, ao bèo, cây vàng, cây bạc, đầu cô, đầu cậu... Bên cạnh những công trình điêu khắc thiên nhiên còn có những công trình điêu khắc nhân tạo, giá trị nhất là pho tượng Phật Bà Quan Thế Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn.
Hương Tích là một động đẹp nổi tiếng và đã được chúa Trịnh Sâm (thế kỷ 17) tự tay đề năm chữ Hán lên cửa động: "Nam Thiên đệ nhất động" (Ðộng đẹp nhất trời Nam).
* Tuyến Long Vân: Gồm có động và chùa Long Vân, động Tiên, động Người Xưa, chùa Cây Khế, Hinh Bồng Tự.
Chùa Long Vân:
Sau khi vào đặt lễ ở đền Trình, xuống đò đi tiếp, du khách sẽ thấy dòng suối rẽ đôi, phía phải là đường vào Hương Tích, phía trái là đi vào động và chùa Long Vân.
Chùa nằm ở trên sườn núi, một nửa lấp sau núi Ân Sơn, một nửa lộ ra giữa rừng cây xanh biếc, mây trắng quấn quýt quanh năm. Chùa được xây dựng vào năm 1920. Ðộng Long Vân cũng được khai tạo vào thời gian này. Ðộng tuy nhỏ nhưng lam khói quanh năm nên lúc nào cũng tạo cho du khách cảm giác thần tiên thoát tục.
*Tuyến chùa Tuyết: Gồm có đền trình Phú Yên, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả, Bảo Ðài, đền Mẫu, đền Thượng, động Ngọc Long...
Chùa Tuyết Sơn:
Sau khi vào chùa Thiên Trù, theo con đường nhỏ men sườn núi, rẽ trái, đi phía nam khoảng 4km là tới khu Tuyết Sơn. Ðây là một quần thể đẹp thứ hai sau động Hương Tích. Suối Tuyết tuy nhỏ nhưng nước trong xanh, uốn lượn quanh co như một con rồng đang bò sâu vào trong dãy núi cao chất ngất. Ðiểm dừng đầu tiên trong tour du lịch này là vào thắp hương, trình lễ ở đền Trình Phú Yên. Sau đó vào Bảo Ðài cổ sái để lễ phật, nghe kinh. Chùa Bảo Ðài có phong cảnh phong quang u tịch. Trong chùa có toà Cửu Long có giá trị mỹ thuật khá cao.
Ði tiếp là đến động Ngọc Long. Ðộng Ngọc Long không rộng lắm nhưng có những nét đẹp độc đáo. Trong động, ánh sáng mờ ảo, nhũ đá, măng đá rủ xuống trông như những ổ rồng quấn quýt. Ðẹp nhất vẫn là pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm tạc liền vào vách đá với vẻ mặt rất từ bi, nhân hậu.


40. CHÙA LONG ĐỌI- Hà Nam

Tên chữ là  Sùng Thiện Diên Linh Tự, được xây dựng từ đời vua Lý Thánh Tông, nằm trên đỉnh núi Đọi, với độ cao 79m so với mặt nước biển. Ban đầu, chùa chỉ được xây dựng với quy mô nhỏ. Đến năm 1118, đời vua Lý Nhân Tông, chùa được xây dựng bề thế, với tháp Sùng Thiện Diên Linh đã được xây dựng với ý nghĩa cầu thiện.

 


Chùa “Long Đọi Sơn” còn có tên chữ là “Diên Linh tự” nằm trên núi Đọi thuộc xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, cách Phủ Lý khoảng 8 km về phía Bắc. Căn cứ vào các tư liệu còn lại thì thời nhà Lý đã sớm chú ý đến ngọn núi án ngữ ở mặt Nam kinh thành Thăng Long, cũng lại mang ý nghĩa phong thủy trấn yểm. Vì thế, khoảng thời gian những năm 1054-1058, triều vua Lý Thánh Tông và Vương phi Ỷ Lan chủ trì xây dựng từ năm 1054 do tể tướng Dương Đại Gia và mời thiên sư Đàm Cứu Chỉ đến trụ trì và tham gia xây dựng.



Tuy nhiên, chùa “Long Đọi Sơn” chỉ thực sự nổi tiếng kể từ khi nhà vua Lý Nhân Tông cho tiếp tục phát triển và xây cây tháp Sùng Thiện Diên Linh từ năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (năm 1118), đến năm 1121 thì hoàn thành. Tháng 3 năm Nhâm Dần (1122) nhà vua mở hội khánh thành chùa. Đến nay, Chùa được trùng tu qua nhiều lần vào các năm 1591, năm 1860, năm 1864, và lần tu sửa lớn là vào năm 1958.
 
Tấm bia trước cổng chính

Đây là ngôi chùa cổ có nhiều nét văn hoá nghệ thuật kiến trúc tinh xảo, mang đậm dấu ấn qua các thời kỳ lịch sử. Năm 1992, chùa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.
Ngôi chùa được xây dựng trong khuôn viên rộng khoảng 2 ha, quay về hướng Nam, lưng tựa vào núi Điệp với ba dòng sông uốn khúc bao quanh. Chùa Long Đọi Sơn được xây dựng theo kiểu chữ đinh, bao gồm 7 gian bái đường và ba gian thượng điện. Hệ thống vì kèo làm theo kiểu chồng đấu giá chiêng, cột cái đường kính 30 cm, chân tảng kê đá cổ bồng, xà và hoành vuông, mái lợp ngói ta.



Xung quanh xây tường gạch, năm gian giữa nhà bái đường được lắp cánh cửa bức bàn bằng gỗ lim. Bên trái chùa song song với nhà thượng điện là năm gian nhà tổ, cột bằng đá vuông, tường gạch, lợp ngói ta. Nối liền nhà tổ là bốn gian tăng phòng, nơi ở của các nhà sư trụ trì. Nhà khách đối diện với nhà tổ qua một sân lát gạch. Nhà tổ, nhà khách, tăng phòng tạo thành hình chữ U có chung một sân gạch ở giữa. Bên phải chùa chính là phủ thờ đức Thánh mẫu Liễu Hạnh công chúa.
Hiện nay, chùa còn giữ được nhiều di vật quý như bia Sùng Thiện Diên Linh, pho tượng Kim Cương, tượng Phật Di Lặc bằng đồng…



Bia Sùng Thiện Diên Linh được khắc năm 1121. Bia cao 2,5m, rộng 1,65m, dày 0,3m. Bệ bia là một khối đá hình chữ nhật dài 2,4m, rộng 1,8m, cao 0,5m không tạc hình con rùa như các chân bia khác mà tạc hình hai con rồng uốn khúc.
Văn bia nguyên có tên là Đại Việt quốc dương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh do Thượng thư bộ hình Nguyễn Công Bật soạn. Nội dung bài văn bia chủ yếu ca ngợi công lao tài trí của nhà Vua Lý Nhân Tông trong việc xây dựng, kiến thiết và đánh giặc giữ nước. Mặt sau tấm bia ghi việc Thái hậu ỷ Lan cung tiến vào chùa 72 mẫu ruộng vào năm 1121, khắc bài thơ của Lý Thánh Tông làm vào năm Quang Thuận thứ 8 (1467).


Chùa “Long Đọi Sơn” còn lưu giữ các pho tượng các vị Kim cương có kích thước xấp xỉ nhau, cao bằng người thực, khoảng 1m60, đứng chống gươm trước bụng. Tượng được tạc bằng đá khối, phục trang theo lối võ quan. Tượng đứng thẳng, hai chân hơi dõng theo thế đứng vững chãi của người lính gác, hai tay khuỳnh chống gươm trước bụng, đầu đội mũ trùm tai, mặt tròn trặn, nhẹ nhõm. Các pho tượng này có mối liên quan mật thiết với các công trình tôn giáo và đã có những đóng góp quan trọng về mặt thẩm mỹ cho công trình.



Tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Long Đọi Sơn
trên núi Long Đọi, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên (Hà Nam)

Trong số những di vật điêu khắc đá được phát hiện ở chùa “Long Đọi Sơn” phải kể thêm tượng đầu người mình chim, mang hình tượng thần thoại trong nghệ thuật Ấn Độ. Tượng được tạc từ đá ráp, cao 40 cm, phần trên tượng là hình người còn nửa dưới là hình chim, chân có móng, đuôi nhiều lông cao vút hẳn lên. Toàn bộ pho tượng thần thoại này được thể hiện khá công phu. Tượng có cấu trúc độc đáo, kỳ dị, nhưng phong cách thoải mái.

 

Ngoài ra, chùa “Long Đọi Sơn” còn khá nhiều pho tượng khác có giá trị về mặt nghệ thuật như pho tượng Phật Di Lặc. Tượng được đúc vào năm 1864 nặng 1 tấn. Toàn bộ pho tượng được đặt vào thế ngồi thoải mái, chân phải chống lên, chân trái xếp vào lòng, áo mặc nhưng chỉ xỏ hai cánh tay, để hở cả ngực và bụng, bụng căng tròn, ngực nở, vai đầy đặn. Bộ mặt diễn tả thành công thể hiện sự no đủ, vui tươi.
Nói đến các di vật của chùa “Long Đọi Sơn” không thể không kể đến những mảnh gốm trang trí kiến trúc. Những viên gạch đất nung có hình vũ nữ, mỗi viên đều có hai hình người đang múa. Chúng có kích thước trung bình cao 0m15, dài 0m22, dầy 0m08. Gốm đất nung có trang trí hình rồng, loại gạch này có chiều dài 0m24, cao 0m10 được nung già, có màu đỏ. Viên gạch được khắc trọn một con rồng. Những loại gạch đất nung có hình trang trí khắc nổi hẳn lên, được gắn vào phía ngoài của các công trình kiến trúc.
Với vị trí địa lý thuận lợi, phong cảnh thiên nhiên đẹp, chùa “Long Đọi Sơn” không chỉ là một điểm du lịch hấp dẫn mà còn nơi lưu giữ những hiện vật rất quý báu đối với việc nghiên cứu văn hóa nước ta cách đây gần một thiên niên kỷ.


Hàng năm chùa có tổ chức lễ hội thờ Phật vào ngày 21 tháng 3 âm lịch. Đây là lễ hội quan trọng nhất trong năm của chùa Long Đọi Sơn. Lễ hội được tiến hành với lễ dâng hương tưởng niệm Lý Nhân Tông, người có công mở mang xây dựng chùa. Sau lễ dâng hương, các đội tế nam quan, tế nữ quan tạ ơn trời phật. Bên cạnh lễ còn có hội với nhiều trò vui được tổ chức như nấu cơm, dệt vải, bơi thuyền, hát chèo, hát đối, hát giao duyên, chọi gà, tổ tôm, múa tứ linh, đấu vật, đánh cờ người…
Từ ngày tạo dựng đến nay, chùa Long Đọi Sơn trải qua gần 900 năm lịch sử. Đến thăm chùa, du khách không chỉ được thăm một trong những thắng cảnh nổi tiếng của chốn Nam Sơn cổ sử đệ nhị, mà còn có dịp tìm hiểu một ngôi chùa cổ kính, một trong những kiến trúc tiêu biểu của thời Lý. Đến với Lễ hội Long Đọi Sơn, ngoài việc bái vọng Phật pháp, cầu may cũng là dịp chúng ta tưởng nhớ các danh nhân trong lịch sử dân tộc.

41. CHÙA VỌNG CUNG-Nam Định


Chùa tọa lạc ở số 28 đường Trần Phú, thành phố Nam Định. Chùa được dựng vào thời Gia Long (1802-1820). Xưa chùa là nơi đón tiếp nhà vua và các quan văn võ đi kinh lý. Chùa bị hư hỏng nhiều lần qua các cuộc chiến tranh. Từ năm 1983 đến 1986, Hòa thượng trụ trì Thích Thuận Đức đã tổ chức xây dựng lại ngôi chùa quy mô như ngày nay. Chánh điện được xây dựng rộng thoáng, bài trí tôn nghiêm. Chùa đang được tiếp tục mở rộng. Chùa hiện đặt văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Nam Hà, là nơi đón tiếp hàng vạn Phật tử, du khách đến tham quan, chiêm bái hàng năm.



Chùa Vọng Cung nằm giữa phố phừờng sầm uất của thành phố Nam Định (tỉnh Nam Định). Vào thời Gia Long (1802 – 1820), công trình đựơc xây cất để đón tiếp vua và các quan đi kinh lý. Năm 1950, nhà sư Thích Tâm Tri từ chùa Quán Sứ (Hà Nội) về Nam Định mở lớp Phật học và xin được tu tạo hành cung xưa thành ngôi chùa. Vì thế, chùa Vọng Cung có nét riêng không giống một ngôi chùa nào ở Việt Nam: chính điện có thể một lúc chứa hàng trăm người.


Ngôi chùa lớn trên khuôn viên rộng gần 3.000 m2 thu hút rất đông khách du lịch gần xa, cùng bà con trong vùng đến ngoạn cảnh, thắp hương, nhờ chùa Vọng Cung ở giữa phố Hà Huy Tập sầm uất, quả là hiếm quý ở thành phố Nam Định. Chùa lại có lai lịch cùng kiến trúc khác thường. Các tòa nhà hai tầng ngang dọc đã được sửa sang, tô điểm, với kiến trúc mái chồng diêm, đầu đao cong vút vốn là hành cung được xây cất vào thời Gia Long (1802 – 1820). Xưa chùa là nơi đón tiếp nhà vua và các quan đi kinh lý.


Năm 1950, nhà sư nổi tiếng Thích Tâm Tri, pháp danh Tuệ Lạng, từ chùa Quán Sứ (Hà Nội) về Nam Định mở lớp Phật học, xin được tu tạo hành cung xưa thành ngôi chùa. Từ năm 1983 – 1986, Hòa Thượng trụ trì Thích Thuận Đức đã tổ chức xây dựng lại ngôi chùa quy mô như ngày nay. Trải nhiều thế hệ sư tổ, nay trụ trì là Hòa thượng Thích Tâm Thông, đã ngoại tám mươi. Nơi cửa thiền này được chính quyền giúp đỡ và dân thành phố góp công, góp của tu tạo, dần dà trở thành ngôi chùa lớn và một trung tâm đào tạo tăng ni.




Khách thăm qua hai cổng tả, hữu, đã gặp khoảng sân rộng, rợp bóng cây to và cây cảnh bôn-sai. Tĩnh mịch và xanh mát làm dịu lòng khách giữa nơi phố xá ồn ào. Cầu thang rộng đặt dưới mái hiên dẫn khách lên gác hai là chùa chính năm gian rộng (chẳng gặp ở bất cứ chùa nào trên đất nước). Đại bái có thể chứa một lúc hàng trăm người thăm. Bàn thờ Phật trang nghiêm, u tĩnh đặt ở hậu cung hương khói ngày đêm. Tượng thờ sơn son thếp vàng, mang dấu ấn thời Nguyễn, kỹ lưỡng, mềm mại. Đẹp nhất là những pho Tam thế Tây phương: Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù, A Nan, Ca Diếp, Cửu Long… Tầng dưới chùa là nhà tổ, nhà trai, bên cạnh nhà giảng rộng, đủ chỗ cho hai trăm sễ trẻ học kinh.

Nghệ thuật chạm, khắc gỗ điêu luyện thế kỷ 19 cũng để lại dấu ấn trên nhiều mảng kiến trúc và trang trí. Các tác phẩm điêu khắc không nhiều, nhưng lạ mắt. Đôi câu đối là hai tác phẩm độc đáo chạm lộng rồng nổi, thếp vàng trên toàn bề mặt, chữ thì đặt nổi trên hình. Hai bức cửa võng ở hậu cung, viền chạm trổ đôi rồng chầu mặt nguyệt; trong chạm “mai-điểu” với bố cục lạ mắt mà hài hòa.
Trong số những hiện vật, đồ thờ bằng đồng, đặc sắc là quả chuông lớn, điểm chuông sớm tinh mơ thì tiếng ngân vang tới ngoại thành.


42. CHÙA MỄ SỞ- Hưng Yên

Chùa thường gọi là chùa Mễ Sở, tọa lạc ở thôn Mễ Sở, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.


Chùa được dựng vào thời Hậu Lê và đã được trùng tu nhiều lần. Ngôi chùa hiện nay có tôn trí pho tượng Bồ tát Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn (bằng gỗ), phần tượng cao 2,80m, bệ cao 0,53m. Nếu so sánh với pho tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh thì tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn chùa Mễ Sở, Hưng Yên có số lượng tay nhiều hơn cả, tới hơn một nghìn chiếc (1113 tay). Ngoài việc các cánh tay được ghép thành hình vòng cung như ở tượng chùa Bút Tháp, nó còn được phát triển tiếp lên phía trên đầu vị Phật, tạo thành các đường vòng uốn khúc liên tục như những đám mây cuộn. Đặc biệt, các tay nhỏ của Quan Âm không chỉ tạc từ cánh tay trở ra như tượng chùa Bút Tháp mà nó còn có thêm phần gập của khuỷu tay. Đôi tay trên cùng được chụm lại ở phía trên đỉnh của mũ thiên quan (được gọi là tay Đảnh hoá Phật), hình thức này được làm theo khuôn mẫu của tượng Phật Trung Quốc. Điểm ấn tượng nhất của pho tượng này là có thêm một đôi tay ở sau lưng tượng (được gọi là tay Phổ Lễ), việc này làm cho bức tượng có thêm một không gian nữa, tạo thành không gian đa chiều cho việc thưởng thức nghệ thuật tượng.


Có thề nói cả pho tượng mang một giá trị nghệ thuật rất cao, rất độc đáo góp phần thu hút du khách khắp nơi về viếng thăm ngôi chùa này.


Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.



43. CHÙA TƯ PHÚC  - Hải Dương

Chùa Côn Sơn còn có tên là chùa Hun, vì tọa lạc trên núi Hun, và tên chữ là "Thiên Tư Phúc Tự", nghĩa là chùa được trời ban cho phước lành. Chùa Côn Sơn, tọa lạc ở chân núi Kỳ Lân hay núi Hun, cao khoảng 200m, thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Chùa ở chân núi Côn Sơn, phía đông huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, gần làng Chi ngại, quê hương của dòng họ nhà  Nguyễn Trãi.

Chùa xây từ đời Trần (1225-1400), nơi tu luyện của trạng nguyên Lý Đạo Tài, pháp danh Huyền Quang, khi ông cáo quan về ở ẩn. Nguyễn Trãi khi về hưu được vua giao chức "Đề cứ" chùa Côn Sơn cùng vợ là Trần Phu Nhân, trông coi và mở rộng thêm. Chùa thờ Phật. Trong chùa còn  hệ thống tượng phật. Trong đó có tượng Di Đà Tam Tôn cao 1m43, tượng Trúc Lam Tam Tổ tức là Trần Nhân Tông, tượng nhà sư Huyền Quang, tượng Trần Nguyên Đán và các bà vợ. Trước đây còn có tượng Nguyễn Trãi và Trần Phu nhân, nhưng đã bị phá năm 1954.

Thời Trần, các vị vua thường đến chùa lễ bái.  Trần Nhân Tông sau khi xuất gia cũng đến đây tham thiền nhập định. Năm 1329, Thiền sư Pháp Loa mở rộng chùa, dựng am Hồ Thiên và am Chân Lạp. Sau đó, Thiền sư Huyền Quang từ chùa Vân Yên (Yên Tử) đến trụ trì.

Toàn cảnh chùa

Chùa là một Tổ đình của Thiền phái Trúc Lâm. Thiền sư Huyền Quang viên tịch vào ngày 22tháng giêng năm Giáp Tuất (1334), Trần Minh Tông đã cấp cho ruộng để thờ và cho xây bảo tháp Đăng Minh, thờ Xá lợi ngài ở lưng chừng núi Kỳ Lân. Hiện nay, giới khảo cổ đã tìm thấy di vật của một ngôi tháp gạch thời Trần cao gần 3m, phủ kín bằng 13 loại hoa văn tinh tế và sinh động. Đến đầu thế kỷ XVIII, do tháp bị đổ, chùa đã dựng lại tháp Đăng Minh bằng đá, 3 tầng, cao hơn 5m, đặt xá lợi và tượng Huyền Quang tôn giả.

Tam quan chùa

Chùa kiến trúc theo kiểu chữ công, gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện là nơi thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ các vị tổ có công tu nghiệp đối với chùa, đặc biệt có tượng của ba vị tổ Thiền phái Trúc Lâm : Điều ngư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang. Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2 tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê. Sân chùa có 4 nhà bia, đặc biệt là bia "Thanh Hư Động" tạo từ thời Long Khánh (1373 - 1377) với nét chữ của vua Trần Duệ Tông và bia hình lục lăng . Sau chùa có hồ non bộ, Giếng Ngọc (mắt Kỳ Lân) nước trong vắt không lúc nào vơi.


Chùa Tư Phúc

Theo sách Hải Dương – Di tích và danh thắng (1999), chùa từng có quy mô 83 gian, có tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, đài Cửu phẩm Liên hoa có 385 pho tượng… Chùa hiện nay kiến trúc kiểu chữ Công (I), còn ngói mũi hài và đá tảng hoa sen là di tích thời Trần. Sân chùa có 4 nhà bia, đặc biệt tấm bia khắc 3 chữ “Thanh Hư Động” là bút tích của Trần Duệ Tông, và tấm bia do Chiêu Dương Nguyễn Đức Minh soạn năm 1607 nói việc trùng tu chùa vào đầu thế kỷ XVII do nhà sư Thích Pháp Nhẫn thực hiện. Nhà tổ thờ tượng Trúc Lâm Tam Tổ và tượng Trần Nguyên Đán.


Bia Thanh Hư động


Tượng Trần Nguyên Đán

Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chùa được trùng tu vào năm 1995.
Sau chùa có Giếng Ngọc (mắt Kỳ Lân) nước trong vắt, có đường lên Bàn Cờ Tiên trên đỉnh núi với trên 600 bậc đá. Cuối thế kỷ XV, Lê Thánh Tông đến Côn Sơn, nhớ Nguyễn Trãi, xúc động viết :
Tịch thổ lâu đài cảnh trí kỳ
Cổ nhân trầm tích, dĩ y hy !
(Đất Phật lâu đài cảnh đẹp thay
Người xưa dấu cũ vẫn còn đây !)



Lúc ngài Huyền Quang mất (1334), Vua Trần Minh Tông cúng 10 lạng vàng để xây tháp thờ xá-lợi ngài ở lưng chừng núi Côn Sơn (còn gọi là núi Kỳ Lân). Điện Phật được bài trí thoáng, tôn nghiêm. Trước chùa có tấm bia khắc 3 chữ "Thanh Hư Động" là bút tích của Vua Trần Nghệ Tông (1322-1395) và tấm bia do Chiêu Dương Nguyễn Đức Minh soạn năm 1607 nói việc trùng tu chùa vào đầu thế kỷ XVII do nhà sư Thích Pháp Nhẫn thực hiện. Chùa được trùng tu vào năm 1995


Cổng đền thờ Nguyễn Trãi

Trong chùa hiện còn nhiều di vật có giá trị như 8 bia thời Trần và Lê.
Một bia bốn mặt niên hiệu Thiệu Phong thứ 18 (1397)
Một bia có 3 chữ "Thanh Hư động" thời Long Khanh (1373-1377) năm Hoằng Định thứ 4 (1603).
Một bia niên hiệu Hoàng Định thứ 14 (1633) - vua Lê Thế Tông
Một bia niên hiệu Thịnh Đức nguyên niên (1653) - vua Lê Thần Tông
Một bia niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 7 (1712) - vua Lê Dụ Tông.
Mộtbia niên hiệu Bảo Thái thứ 2 (1721) vua Lê Dụ Tông.



Chùa Côn Sơn

 Năm Hưng Long thứ 12 (1304) nhà sư Pháp Loa cho xây dựng một liêu (chùa nhỏ) gọi là Kỳ Lân. Đến năm Khai Hựu thứ nhất (1329) chùa được xây dựng mở rộng thành Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự, giao cho Huyền Quang chủ trì.
Ngay từ thời nhà Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm cùng với chùa Yên Tửchùa Quỳnh Lâm, Quảng Ninh. Nơi đây đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang và người anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi.

Chùa Côn Sơn

Vào đời nhà Lê, lúc Thiền sư Mai Trí Bản hiệu Pháp Nhãn trụ trì, chùa được trùng tu và mở rộng. Khi đó chùa có đến 83 gian, bao gồm các công trình như : tam quan, thượng hạ điện, tả hữu vu, lầu chuông, gác trống. Nhưng do bị chiến tranh tàn phá, ngày nay chùa Côn Sơn chỉ còn là một ngôi chùa nép mình dưới tàn lá xanh của những cây cổ thụ.

Chùa Côn Sơn

Chính điện chùa Côn Sơn Trước sân tiền đường chùa Côn Sơn có những cây đại cổ, làm tăng cảnh đẹp và tôn nghiêm của chùa.
Chùa Côn Sơn xưa là một công trình kiến trúc hoàn thiện, có 385 pho tượng. Tương truyền ở ban thờ đầu hồi phía Đông nhà Tổ có 2 pho tượng nhỏ ngồi xếp bằng, một đàn ông, một đàn bà hướng về bàn thờ Phật. Tăng ni tu ở chùa Côn sơn không biết hai pho tượng đó là ai và có tự bao giờ. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, sợ giặc đến chùa tàn phá, các tăng ni Phật tử dã đem đồ thờ và các pho tượng nhỏ cất giấu ở trong núi. Vào một đêm mưa gió sấm sét to, sư ông trụ trì chùa ngủ không yên, đợi sáng hôm sau trời tạnh vào thăm lại bức tượng. Sư ông vào xem và thấy hai pho tượng trên đắp bằng đất bị mưa làm vỡ, lộ hai dải yểm tâm mới biết đó là tượng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.
Phía sau chùa Côn Sơn là khu mộ tháp. Đăng Minh bảo tháp được dựng bằng đá xanh, cao 3 tầng, trong đặt xá lợi và tượng Thiền sư Huyền Quang.

 
a

Chùa Côn Sơn - Thiên Tư Phúc tự

Nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, dưới chân Đăng Minh bảo tháp là Giếng Ngọc. Người xưa cho rằng Giếng Ngọc chính là mắt của con Kỳ Lân. Giếng Ngọc cũng có thời gian bị cỏ cây che lấp. Năm 1995, ban Quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã cho khơi lại, kè đá, xây bờ, lát sân để phục vụ cho du khách về tham quan Côn Sơn lại được tận hưởng nước giếng thiêng.
Tại Bàn Cờ Tiên trên đỉnh núi Côn Sơn, nơi đây ngày xưa có một am nhỏ hình chữ Công (I), tám mái chảy, có lan can xung quanh. Am này có tên là Am Bạch Vân.




44. THIỀN VIỆN TRÚC LÂM - Vĩnh Phúc

Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử nằm tại xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, cách Hà Nội khoảng 85 km về phía tây. Cùng với Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một trong 3 thiền viện lớn nhất của Việt Nam. Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xây dựng ngay bên cạnh Khu di tích danh thắng Tây Thiên cổ tự (Chùa Tây Thiên, Đền Quốc Mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu, Đền Cô, Đền Cậu, Đền Thõng, Thác Bạc).



Thiền viện Tây Thiên là nơi đào tạo về Phật giáo một cách có hệ thống, tạo điều kiện để Phật giáo Việt Nam phát triển cả về bề rộng cũng như chiều sâu và đẩy mạnh giao lưu với các dòng phật giáo của các nước khác.
Đây là một trong những nơi phát tích sớm nhất của Phật giáo Việt Nam. Khoảng thế kỷ thứ 3, có một vị hòa thượng tên là Khương Tăng Hội dừng chân ở đây, dựng chùa truyền giáo, vì thế nơi đây là cái nôi của Phật giáo Việt Nam. Thiền học Việt Nam được khởi đầu với hòa thượng Khương Tăng Hội, ông cũng đem Thiền học sang truyền bá ở Trung Quốc thời Tôn Quyền (năm 247). Cha của Khương Tăng Hội là người nước Khương Cư (Sogdiane) cư trú tại Giao Chỉ để buôn bán, mẹ là người Giao Chỉ, ông chắc chắn là sinh trên đất Giao Chỉ, cha và mẹ ông mất năm ông lên mười tuổi, ông mất năm 280 bên nước Tấn.


Vua Hùng thứ 6 tên là Hùng Chiêu Vương lên chùa Thiên Ân trên đỉnh núi Tam Đảo để cầu tự, khi trở về đã gặp bà Lăng Thị Tiêu và rước về làm vợ; bà là người xinh đẹp, giỏi giang, có tài thao lược, giúp vua Hùng đánh giặc giữ nước Văn Lang.



Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên nằm trên ngọn đồi rộng khoảng 4,5 ha, cao khoảng 300 m so với mực nước biển. Công trình này mang đậm dấu ấn kiến trúc Phật giáo đương đại. Trước thiền viện là một cánh đồng rộng, phía sau là dãy núi cao với rừng thông xanh ngắt.



Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xây dựng trên nền của một thiền tự cổ (Thiên Ân Thiền Tự) có từ thế kỷ 3.
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên được khởi công từ ngày 4/4/2004 (15/2 âm lịch) với tổng số vốn 30 tỷ đồng. Khi làm lễ khởi công, trên nền ngôi chùa cổ các nhà sư đã tìm được vô số các viên gạch và mảnh ngói vỡ có hoa văn mang dấu ấn của thời Trần. Sau hơn 15 tháng xây dựng công trình mang tầm cỡ quốc gia này đã chính thức hoàn thiện và được khánh thành ngày 25/11/2005. Công trình to lớn này đã được xây dựng với thời gian nhanh và giá thành thấp kỷ lục, riêng tòa Đại Hùng Bửu điện chỉ thi công trong vòng 9 tháng. Sở dĩ tốc độ xây dựng nhanh như vậy vì có sự tham gia đóng góp của hàng ngàn người, trong đó có các nghệ nhân và làng nghề hầu khắp trong cả nước: thợ mộc Hà Tây, Bắc Ninh; thợ đá Non Nước, Ninh Bình; thợ xây Nam Định, Hà Nội.



Nằm trên quả đồi với diện tích rộng khoảng 4,5ha, rừng ngoại vi rộng 50ha, nằm trên độ cao khoảng 300m so với mực nước biển, công trình mang đậm dấu ấn một ngôi chùa Việt Nam với phong cách kiến trúc đương đại. Phía sau chùa là núi rừng xanh tươi, trước là một cánh đồng thẳng cánh cò bay.
Phía ngoài là Cổng Tam Quan với dòng chữ Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên và câu đối. Để lên Cổng Tam Quan phải qua nhiều bậc đá.


45. CHÙA TÙNG VÂN- Vĩnh Phúc

Hình thành cách đây hơn 1.000 năm, làng Thổ Tang xưa, nay là thị trấn Thổ Tang thuộc huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc, nổi tiếng là vùng đất nhiều nghề, giỏi giao thương buôn bán; là nơi sản sinh ra nhiều danh nhân của Vĩnh Phúc nói riêng và cả nước nói chung mà tên tuổi còn mãi lưu truyền trong sử sách. Đây còn là nơi có cụm di tích lâu đời, tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc mang nhiều ý nghĩa lịch sử, như đình làng Thổ Tang, chùa Tùng Vân.


Chùa Tùng Vân - Vĩnh Phúc

Chùa Tùng Vân nằm ở giữa trung tâm thị trấn, gần với đình Thổ Tang. Đây là ngôi chùa lớn với lịch sử hơn 320 năm tuổi được xây dựng từ đời vua Lê Huy Tông vào năm Chính Hòa thứ 7 (1686) để phục vụ đời sống tôn giáo của người dân địa phương và cả một vùng rộng lớn. Chùa được xếp hạng di tích Văn hóa quốc gia năm 1964 và nhận bằng di tích văn hóa quốc gia năm 1992. Trải qua những thăng trầm biến cố chùa được nhiều lần trùng tu và lần gần đây nhất là vào năm 2008. Cùng với quá trình trùng tu, tôn tạo, chùa đúc Đại hồng chung nặng 1,1 tấn.

 


 Chùa được xây dựng trên địa thế đẹp, bố cục theo kiểu chữ “quốc” có cây cối bao bọc xum xuê, với các hạng mục: Tam quan, tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, hành lang. Chùa Tùng Vân không bề thế, nhưng có kiến trúc đẹp, gồm 7 gian 2 dĩ, với hệ thống kết cấu hàng trăm cột gỗ và đá. Đây là kiểu kiến trúc hình chuôi vồ, 3 gian hậu cung, 7 gian tiền đường; là một trong những kiến trúc phật giáo tiêu biểu của vùng Đồng bằng Bắc Bộ.

Chùa Tùng Vân xưa xây kiểu cửa cuốn, có những đường nước chảy xuống hai đường mái hai bên tựa như giếng trời; xưa các sư trong chùa dùng nước này để sinh hoạt, đến thời kháng chiến chống Mỹ đã bị mai một đi. Ngày nay, chùa đã khôi phục lại theo lối tứ trụ trồng cột; khác với vẻ rêu phong của chùa trước đây, chùa Tùng Vân ngày nay có lối kiến trúc đẹp hơn với nhiều hoa văn, họa tiết tinh xảo hơn. Mái chùa lợp ngói mũi hài, uốn cong bốn góc, trên nóc có bàn tay vươn ra từ hoa sen đỡ bánh xe pháp luân của nhà Phật.

Chùa Tùng Vân

Tam quan ngôi chùa dựng theo lối cổ xưa với trên đỉnh có bánh xe pháp luân, ở giữa là chữ vạn, ở trên các đầu mái uốn cong của các góc đều là những linh vật gắn với bầu trời như: Rồng, phượng, mây.
Đình làng Thổ Tang

Qua cổng Tam Quan là khuôn viên sân chùa với lầu quan âm tọa lạc ở góc bên trái. Quanh sân trồng nhiều cây cau cao vút (Hình ảnh quen thuộc của vùng Bắc Bộ) tạo cho phật tử và du khách đến đây cảm thấy sự gần gũi với cuộc sống hàng ngày của người dân.


Qua năm bậc thềm từ sân lên đến tiền đường là khu vực chính của chùa, trước cửa vào là bức bình phong lớn để tránh mọi điều xấu du nhập từ bên ngoài vào chùa. Một trong những nét độc đáo của chùa là hàng cột đá ngay trước tiền đường. Trên mỗi cột đá đều được chạm khắc những hoa văn mang hình tượng tứ linh: Long, ly, quy, phụng và tứ quý: Tùng, cúc, trúc, mai thể hiện sự sinh sôi của bốn mùa. Điều đặc biệt nữa là toàn bộ gỗ trong chùa đều là gỗ lim.
Nối tiếp giữa thềm và chính điện là bộ cánh cửa bức bàn bằng gỗ lim, chạm trổ rất công phu, phía trên cửa đặt chấn song con tiện, bên dưới tạc phù điêu tứ quý cách điệu.



Theo con đường nhất chính đạo đi vào bên trong tiền đường, phía bên phải lối vào là tượng ông Khuyến Thiện, đầu đội kim khôi, tay cầm đại đao nhưng gương mặt hiền từ, với ý nghĩa khuyên mọi người nên làm những điều thiện (chánh tâm). Phía bên trái lối vào là tượng ông Trừng ác, cũng mặc khôi giáp, nhưng gương mặt dữ dằn, một tay cầm búa, một tay cầm Ngọc ấn tỷ phù, với ý nghĩa nhắc nhở người làm điều ác sẽ bị trừng phạt (vọng tâm). 


Tượng Phât bằng đất nung trên 300 năm
 
Nhà thờ tổ là nơi lưu giữ nhiều pho tượng bằng đất nung có giá trị (trong đó có pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đất nung, có niên đại cách đây gần 300 năm), được bài trí theo phong cách của dòng Phật giáo Đại Thừa - Bắc Tông. Ngoài ra chùa còn lưu giữ nguyên vẹn nhiều hiện vật quý như chuông đồng, khánh đồng. ở gian hậu cung có khán thờ về đức Khổng Tử cho thấy ở nơi đây có truyền thống hiếu học lâu đời. Cũng ở khán thờ này, còn tạc hai thị nữ hai bên cánh cửa rất mềm mại, thể hiện sự khéo léo trong nghệ thuật tạc tượng từ xưa. Không chỉ vậy, chùa Tùng Vân còn lưu giữ được hệ thống văn bia cổ, đây là những tài liệu quý có giá trị nghiên cứu lịch sử, văn hóa.


 Tượng phật ngọc tại Chùa Tùng Vân

 Chùa Tùng Vân nổi tiếng với pho tượng Đức phật Tổ Thích Ca Mâu Ni được đặt ở gian tiền đường. Tượng được tạc từ khối ngọc xanh nặng hơn 10 tấn, chiều cao 3,3m, rộng 2,1m, dày 1,2m; đây là khối ngọc quý hiếm và lớn nhất trong các khối ngọc tìm thấy trong nước ta. Bức tượng được hoàn thành đúng vào dịp cả nước kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long. Bức tượng mang vẻ đẹp sáng bóng dịu mát của màu xanh rất gần gũi với tâm nguyện hàng ngày mỗi người dân Việt Nam - luôn hướng tới sự thanh bình! Sau khi tạc pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, khối ngọc xanh còn lại tiếp tục được các nghệ nhân tạc bức tượng Phật Bà Quan Âm, nặng khoảng 5 tấn. Bức tượng Phật Bà Quan Âm cũng được tạc tinh xảo, kết tụ tinh hoa, tâm huyết của nghệ nhân, giúp phật tử cảm nhận được cái “thần” khi chiêm bái. Nơi đây cũng là nơi trưng bày những pho tượng như tam thế phật, phật sơ sinh, bức tranh Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh. Ngày 16/9/2011 chùa Tùng Vân được sách Kỷ lục Việt Nam xác nhận là “Nơi an vị pho tượng Phật ngọc nguyên khối lớn nhất tại Việt Nam”.


Cũng giống như rất nhiều ngôi chùa khác ở Miền Bắc, chùa Tùng Vân xây dựng theo lối tiền phật, hậu mẫu. Chùa có gian thờ mẫu ở phía sau, gồm mẫu Thiên, mẫu Thoải, mẫu Thượng ngàn cùng hệ thống các quan, các cô, cậu lập nên một bàn thờ tương đối đầy đủ về tín ngưỡng thờ Mẫu.
Với những giá trị về lịch sử, kiến trúc, chùa Tùng Vân ngày nay nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, không chỉ thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử đến hành lễ mà còn là điểm thu hút khách tham quan, du lịch khi đến Vĩnh Phúc.




No comments:

Post a Comment