236.NHÂN VĂN 5.
NHÂN VĂN SỐ 5
ngày 20-11-56
Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủÝ kiến của nhà sử học Đào Duy Anh
Câu hỏi:1.
Theo
ý ông, lúc này giới trí thức nói chung và giới văn nghệ nói riêng, cần
phải làm những gì để góp phần thực hiện mở rộng tự do tư tưởng, tự do
ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác?2. Theo ý ông và trên cơ sở nhu
cầu phát triển của ngành ông thì chúng ta cần phải đem ra thảo luận rộng
rãi những vấn đề gì?Trả lời:1. Chế độ của chúng ta căn bản là tự do.
Phàm những loại tự do dân chủ chúng ta đều có cả. Nhưng trong quá trình
xây dựng chế độ, chúng ta đã gặp, chính trong nội bộ chúng ta, những cái
hạn chế và ngăn trở tự do. Tên tuổi của những kẻ thù nội bộ của tự do
ấy, người ta đều biết cả: tức là những tệ quan liêu, mệnh lệnh, độc
đoán, bè phái còn ngự trị lén lút hay công nhiên ở địa vị điều khiển và
lãnh đạo của nhiều cơ quan, những bệnh giáo điều chủ nghĩa, công thức
chủ nghĩa, sùng bái cá nhân còn ngự trị trong công tác lãnh đạo văn nghệ
và học thuật và còn nặng nề chính trong tư tưởng của nhiều người trong
giới trí thức chúng ta.
Để góp phần thực hiện những thứ tự do mà quý
báo đề ra trong câu hỏi, giới trí thức là những người thiết tha nhất đối
với các thứ tự do ấy chỉ có một cách là đấu tranh. Đấu tranh trong công
tác chuyên môn, đấu tranh trong hoạt động xã hội. Đấu tranh bằng hoạt
động phê bình, phản phê bình, tự phê bình. Chúng ta đấu tranh nội bộ để
đánh lùi những lực lượng lạc hậu làm vướng bước tiến của chế độ chúng
ta, cản trở sự phát triển của văn hoá chúng ta, để cho chế độ chúng ta
càng ngày càng tốt, văn hoá chúng ta càng ngày càng cao. Trong cuộc đấu
tranh gay go phức tạp nhưng chính nghĩa ấy, chúng ta chắc được Đảng lãnh
đạo tán thành, chúng ta chắc được quần chúng ủng hộ.Nhưng chỉ nói đấu
tranh chung chung như vậy thì không thiết thực. Không ai ngăn cấm anh tự
do nghiên cứu, sáng tác, nhưng nếu anh không có phương tiện nghiên cứu
sáng tác thì thực tế anh chẳng có quyền đâu. Không ai ngăn cấm anh tự do
ngôn luận, nhưng nếu anh không có phương tiện để in sách báo thì thực
tế anh cũng chẳng có quyền đâu. Hơn nữa, nếu anh có được những điều kiện
đặc biệt may mắn mà in sách in báo được, nhưng nếu không có phương tiện
phát hành thì anh cũng đừng nên mạnh nói tự do.
Trong khi về
thực tế phần nhiều những phương tiện xuất bản, phát hành, đến cả các
phương tiện nghiên cứu và sáng tác đã tập trung ở các cơ quan chính
quyền, thì vấn đề không phải là đấu tranh để đòi tự do gì gì, mà là đấu
tranh để tranh thủ sự giúp đỡ thiết thực của Chính phủ tạo điều kiện cho
sự thực hiện những tự do ấy, ví dụ giúp đỡ thiết thực cho tư nhân xuất
bản dễ dàng, giúp đỡ việc phát hành, cho phương tiện thuận tiện để sáng
tác và nghiên cứu, săn sóc sự xuất bản rộng rãi các tác phẩm văn nghệ và
đặc biệt chú ý xuất bản những tác phẩm nghiên cứu khoa học. Ở trong chế
độ ta, Chính phủ và nhân dân là nhất trí. Những yêu cầu trên là nghĩa
vụ của Chính phủ phải thoả mãn để phát huy hết khả năng của nhân dân và
của giới trí thức nói riêng.
2. Chỗ tôi công tác là trường Đại học tổng hợp.
Vậy
tôi nói đến những vấn đề cần phải đề ra trong công tác xây dựng trường
ấy. Theo nhiệm vụ của Chính phủ đặt cho thì trường Đại học phải là trung
tâm văn hoá tiêu biểu của nước nhà. Nó chính phải đánh dấu trình độ
phát triển của văn hoá, trình độ nghiên cứu của khoa học. Muốn gánh được
nhiệm vụ ấy, trường Đại học phải là một trung tâm nghiên cứu khoa học
cao độ. Sự xây dựng trường Đại học gặp rất nhiều khó khăn lớn, về trường
sở, về cán bộ. Những khó khăn ấy nhất định phải khắc phục được nếu
nguời ta có quyết tâm khắc phục. Cho nên, theo ý tôi, vấn đề đầu tiên
phải đặt ra là làm thế nào cho các cơ quan có liên quan trách nhiệm thấy
rằng xây dựng trường Đại học là một vấn đề quốc gia trọng đại, không
tích cực góp phần vào xây dựng nó mà có khi còn trở ngại nó là có tội
với nước, với dân.
Vấn đề ý thức, vấn đề tư tưởng ấy mà giải
quyết được thì mới khỏi gặp phải tình trạng như đối với cái quỹ tí hon
10 vạn đồng một tháng để xây dựng cái thư viện văn khoa cho trường Đại
học, bộ Tài chính lại thỉnh thoảng xén xẻo đi một nửa lấy cớ là mua sách
nhiều quá (trong khi để có kẻ tham ô lãng phí mỗi lần hàng mấy trăm
triệu), hoặc tình trạng như sách Trung Quốc viện trợ cho nước ta rất
nhiều, thế mà hơn nửa năm nay, bộ Giáo dục và nhiều người quan trọng can
thiệp, bộ Văn hoá vẫn giữ cả chưa chuyển cho trường Đại học quyển nào,
đến nỗi các giáo sư rất cần những sách ở đó để chuẩn bị khai giảng sắp
tới mà sách vẫn nằm mốc trong kho của Thư viện Trung ương, không tài nào
gỡ ra được.Một vấn đề quan trọng nữa phải đặt ra là đối với một trung
tâm nghiên cứu khoa học là trường Đại học thì sự bố trí cán bộ nói chung
và đặc biệt là cán bộ điều khiển và phụ trách, nên nặng về tiêu chuẩn
chuyên môn hay nên nặng về tiêu chuẩn chính trị? Do vấn đề đó nẩy ra hai
vấn đề phụ:Dù là một tổ chức nghiên cứu khoa học, tiêu chuẩn chính trị
cũng cần phải có, vì chúng ta không quan niệm có nhà khoa học phi chính
trị, có nhà chuyên môn siêu giai cấp. Nhưng nên yêu cầu tiêu chuẩn chính
trị như thế nào? Có cần nhất thiết phải là đảng viên hay dự bị đảng
viên thì mới dùng? Có cần phải là người ngoan ngoãn phục tùng, khôn
khéo, mềm dẻo, ít đấu tranh, tức là ít làm phiền cho cấp trên thì mới
dùng, mà người có tinh thần đấu tranh thì nhất thiết gạt đi? Hay là cần
đặt tiêu chuẩn rộng rãi hơn như thế nào?Về tiêu chuẩn chuyên môn thì cấp
trên nên bằng cứ vào đâu?
Nếu bằng cứ vào thành tích nghiên cứu
và công tác chuyên môn do quần chúng - quần chúng trực tiếp là học sinh
và giáo sư, quần chúng gián tiếp là công chúng rộng rãi và giới khoa học
quốc tế - nhận định, hay chỉ bằng vào sự xét đoán riêng, không khỏi có
phần hẹp hòi chủ quan và cảm tình cá nhân, của người lãnh đạo?Cuối cùng
tôi muốn nêu lên vấn đề học tập nước bạn. Trong công cuộc xây dựng ngành
Đại học, chúng ta cần phải học tập, mà cần phải học tập rất nhiều các
nước bạn, nhất là Liên Xô và Trung Quốc là những nước làm thầy chúng ta
về nhiều mặt. Chúng ta cần phải thành khẩn học tập kinh nghiệm cũng như
kiến thức của các chuyên gia nước bạn. Nhưng có nên lấy tinh thần tự ti
dân tộc mà phủ nhận khả năng sáng tạo của chuyên gia Việt Nam không?
Vấn
đề này cũng cần phải thảo luận để nhằm thực hiện sự học tập một cách
sáng tạo; không sa vào cái tệ học tập máy móc và giáo điều có thể gây
nên tai hại.Những vấn đề trên đều có nội dung cụ thể của chúng nhưng đây
không phải là chỗ thảo luận nên tôi không nêu ra. Đó chỉ là những khiá
cạnh cụ thể của một vấn đề lớn là sự nhận định vai trò của giới trí thức
chuyên môn và sự tín nhiệm họ trong công cuộc xây dựng nền Đại học nói
riêng và sự nghiệp kiến thiết văn hoá và kinh tế nói chung.
==
NHƯ MAI
Thi sĩ máy
"…
Với một chiếc máy sửa đổi đôi chút để nó có thêm trí nhớ và có cả mọt
chút lý luận, người ta có thể dùng máy để phiên dịch và để viết văn…"
(Trích báo Tổ quốc số 41)
I. Thế nào là công bằng mà nói ở cõi
đời này? Đầu năm 2000… Các báo chí xuất bản đều sổi nổi đăng tin tức
quan trọng về máy "viết văn" dưới những đầu đề "giật gân" lớn… Tờ Công
thức trong bài xã luận "Nhiệt liệt chào mừng các văn nghệ sĩ máy!" đã
giới thiệu như sau: "Nhờ áp dụng những khả năng mới nhất của khoa học
điện tử, máy ‘viết văn’ đã hoàn thành thoả mãn được nhu cầu văn nghệ
ngày một tăng của loài người. Những sáng tác phẩm của nó, vừa kịp thời
vừa minh hoạ đúng chính sách, sẽ giải quyết được mọi khẩu hiệu phức tạp
của cuộc sống. Mỗi giây đồng hồ máy đó có thể sản xuất được từ 7 đến
8.000 dòng văn thơ. Nếu dùng sức óc và tâm hồn người thì phải hàng ngàn
văn nghệ sĩ với một trình độ sách vở rất cao, cặm cụi hàng trăm năm mới
làm nổi… Do tính chất ‘Nhân văn’ của máy nên ta tạo cho nói cái vỏ bọc
ngoài, hình dáng một anh chàng: trẻ, khoẻ, đẹp, chỉ khác người ‘thật’ là
đứng nguyên một chỗ, không nói, cười, chạy nhẩy, nhất là không yêu
đương lãng mạn lôi thôi…"
Báo Công thức kết luận: "Chúng ta,
những con người ‘thật’, cần hợp tác nhất trí với các người ‘máy’, cần
triệt để dùng họ và đội quân văn nghệ sĩ có thể chuyển sang các ngành
công tác khác, tăng cường thêm lực lượng kiến thiết thời đại điện tử của
chúng ta." Hơn một năm sau cái ngày tin vui đó truyền đi, thì hàng loạt
văn sĩ máy, thi sĩ máy, kịch sĩ máy được tung ra thị trường. Một số cán
bộ phụ trách về văn chương sính máy móc ở một số ngành, một số cơ quan
xí nghiệp nông trường v.v… thi nhau mua về sử dụng. Ở những nơi đó, nền
văn nghệ máy được độc quyền tô lục chuốt hồng cuộc sống bình ổn, còn lũ
văn nghệ sĩ bằng xương, bằng thịt thì bị gạt ra ngoài. Nhạc sĩ Ảo Huyền
được cử đi học lớp "nghiên cứu nghề làm nước mắm"; hoạ sĩ Lập Thể được
điều sang Mậu dịch; nữ sĩ Trong Trắng ném bút làm nghề đỡ đẻ.
Thi
sĩ Mây Nước ra Bờ Hồ làm nghề bói Kiều tán róc về thành phần giai cấp
cho những người còn đầu óc mê tín dị đoan. Văn sĩ Đắng Văn Cay phải ra
chợ giời làm nghề bán văn kiêm bán săm. Săm lốp vì cần khuyến khích nên
được miễn thuế, còn văn của Đắng Văn Cay thì bị liệt vào hàng "vô dụng"
và phải chịu thế 4 phần trăm. Rất ít người chịu quẳng tiền ra mua. Đôi
ba vị khó tính lại còn rỉa rói: "Văn chương anh thì ra cái đếch gì!
Không ích lợi bằng chiếc đế dép cao su của tôi nữa kia!". Nhà đạo diễn
Kinh Kha được chuyển sang ngành nuôi cá vàng, mỗi khi luyến tiếc sân
khấu thường ngắm cá bơi lội rồi tưởng tượng con cá vẩy bạc óng ả này là
Điều Thuyền, con cá đen mặt sắt nọ là Bao Công, cặp cá đuôi cờ lồi mắt
kia là đôi nhân vật tiểu tư sản... Tóm lại có một bộ phận văn nghệ sĩ bị
tơi bời rối loạn. Ai cũng thù ghét lũ người máy mới ra đời kia, nhưng
ai cũng chịu thua. Vì cứ công bằng mà nói thì "máy móc" quả là kịp thời
sự, thông kinh sử, lại đúng khuôn phép, "tốt ăn tốt ở" hơn người thực ở
cõi đời này. II. Vì sao mà "Lăng Quăng" nổi ghen? Ở nông trường tập thể
Con Én có nhà thơ trẻ tuổi Linh Quang.
Suốt mấy năm liền kể
từ ngày nông trường bắt đầu xây dựng, Quang đã làm thơ ca hò vè đủ kiểu,
khi duyên dáng, khi nghịch ngợm, khi thiết tha yêu đời để phục vụ nông
trường. Một vài bài thơ của anh đã được bà con học thuộc lòng. Nói chung
anh làm việc tốt và được cảm tình của nhiều người. Nhưng có ưu thì cũng
phải có khuyết. Cái khuyết của anh ta là hay vi phạm luật lệ. Giữa giờ
chính quyền nhiều lần anh bỏ đi chơi. Khi thì đi câu với cụ Hay Rượu để
tán ma tán mãnh về nhiều cái sự đời. Khi thì lê la tâm sự với vài gã
thanh niên, bàn về những chuyện tương lai trên giời dưới đất. Khi thì
trò chuyện với một số phụ nữ ở nhóm giữ trẻ, điều tra cái việc sao đàn
bà và con nít lại hay khóc như nhau. Đôi khi còn làm thư ký riêng cho
vài lão bà muốn viết thư gửi con cháu công tác ở tỉnh xa. Ngoài ra anh
còn bừa bãi như giấy tờ sách vở không sắp xếp ngăn nắp, tóc không có
đường ngôi, áo mặc chuyên môn không cài khuy cổ, sáng tác thì không có
chương trình kế hoạch. Nghiêm trọng nhất là khi yêu cô Duyên, cán bộ cơ
xưởng của nông trường, anh không hề có báo cáo trước.
Tất
cả những điều trên đây là làm cho trưởng ban nội quy Nghiêm Văn Túc,
con người rất mực khuôn vàng thước ngọc, phải lấy làm bực mình và chướng
tai gai mắt. Túc thường bắt bẻ anh và gọi riễu anh là Lăng Quăng. Cả
nông trường về sau cũng quen gọi anh bằng cái tên bị Túc xuyên tạc ấy.
Ông chủ tịch nông trường vốn người từng trải, hiểu rõ câu "nhân vô thập
toàn", lại biết mến tài nên đối xử với Lăng Quăng rộng lượng. Cũng vì
vậy mà trong khi có một số nơi đã mua sắm văn nghệ sĩ "máy", ông vẫn
viện hết lý do này lý do khác để không chịu dùng cái thứ "máy móc" đó.
Ông nói: "Còn khối nơi người ta không có người máy mà phong trào văn
nghệ của người ta vẫn lên rầm rầm". Có lúc ông lại phát biểu: "Đồng chí
Lăng Quăng vẫn đủ khả năng phục vụ nông trường" hoặc "Văn thơ máy thì
hay làm sao bằng văn thơ người được". Nghiêm văn Túc luôn luôn đối lập
với những ý kiến đó, luôn luôn đòi nông trường Con Én phải có một thi sĩ
máy. Túc thì chẳng hiểu văn nghệ, văn nghiếc là cái quái gì, nhưng chỉ
nghĩ một cách sơ lược là: được cái gã "tốt ăn tốt ở" ấy về thì đỡ phải
lao tâm tổn trí đối phó như đối với Lăng Quăng.
Phần nội
quy ở nông trường tất nhiên sẽ được bảo đảm. Túc đòi hỏi nhiều lần mà cứ
bị gạt đi, bèn mưu mô vận động một số anh em cùng cánh làm kiến nghị
phê bình ông chủ tịch là cảm tình cá nhân, có tư tưởng bao che hữu
khuynh với Lăng Quăng, không có tinh thần cải tiến nông trường, thiếu
tin tưởng ở kỹ thuật hiện đại. Bản kiến nghị yêu cầu ông chủ tịch phải
cho nông trường sắm ngay một người máy về thay thế Lăng Quăng, nếu không
sẽ kiện lên trên. Ông chủ tịch bị dồn vào cái nước không đồng ý không
được nên đã quyết định tán thành, nhưng đồng thời ra chỉ thị vẫn để Lăng
Quăng làm thơ như trước, chiếu cố đến thành tích của anh ta. Thế là chỉ
mươi ngày sau, Nghiêm Văn Túc lên bách hoá tỉnh chọn lọc, đã mua về
đuợc một thi sĩ máy, cổ đeo biển đăng ký số 111.
Đêm ra mắt
của thi sĩ 111 được tổ chức trọng thể. Câu lạc bộ treo đèn kết hoa rực
rỡ như những ngày hội mùa. Nam nữ đều ăn mặc đẹp. Trước khi vào bàn
tiệc, người ta thì thào bàn tán rất nhiều về "anh ta", nhất là trong đám
đàn bà con gái. Một nữ công nhân lái máy cày khoe khoang: "Các bà chị
ạ! Em được xem mặt anh ta hôm mới khiêng về rồi. Sao người giả mà đẹp
thế, đẹp hơn người thật chúng mình nhiều. Đôi mắt anh ta lại cứ nhìn em
chằm chằm làm em ngượng đỏ cả mặt". Cô Duyên (người yêu của Lăng Quăng)
cũng ở trong đám ấy. Muốn tỏ cho mọi người biết trình độ học rộng của
mình, cô bèn vanh vách thuật lại những điều đọc được về người máy đăng
trong tờ Công thức. Không mộ ai thèm đẻ ý đến Lăng Quăng nữa, Anh thất
thểu đi giữa đám đông, chẳng bắt chuyện với ai mà cũng chẳng ai buồn bắt
chuyện với. Càng nghe những lời tán tụng thi sĩ máy, lòng anh càng nặng
trĩu buồn phiền. Bước vào tiệc rượu. Nghiêm Văn Túc đạo mạo đọc diễn
văn khai mạc với những câu văn vẻ hùng hồn như sau: "Chúng ta hoan
nghênh người bạn mới của nông trường và tin tưởng tâm hồn điện tử của
anh sẽ truyền hơi sống vào thi ca, ngõ hầu thúc đẩy chúng ta tiến mau
trên đường sự nghiệp..."
Tán đến con số đăng ký 111, Túc
nói: "Nếu đem chiết tự con số đó, chúng ta sẽ được ba con mắt ‘nhất’, nó
biểu hiện anh bạn chúng ta có ba điệu trội nhất, ấy là: nhanh nhất,
đúng nhất và kỷ luật nhất. Tôi trân trọng đề nghị từ này sẽ gọi tên anh
là Ba Con Nhất cho nó… mỹ thuật". Quay sang phía Lăng Quăng, Túc cười
đắc chí, kêu gọi Lăng Quăng nên cố gắng noi gương thi sĩ Ba Con Nhất về
mọi mặt, nhất là về mặt tôn trọng nội quy. Đọc xong diễn văn, Túc chắp
hai tay lên ngực, nghiêm chỉnh ngồi xuống, đảo mắt liếc trộm đám phụ nữ,
y thầm nghĩ: mấy cũng có vài cô ả cảm phục cái oai phong lẫm liệt của
mình. Tiếp đó, theo đúng nghi lễ, người ta mở tấm vải choàng phủ mặt để
Ba Con Nhất xuất đầu lộ diện. Toàn phòng đứng dậy vỗ tay, nâng cốc, chạm
cốc, hoan hô ầm ầm và xuýt xoa khen bộ mặt phỗng của Ba Con Nhất quá là
trẻ đẹp. Người ta vặn những nút chữ sau lưng hắn, máy chạy sè sè trong
bụng hắn. Đôi mắt hắn lúc sáng lúc tắt, trông tưởng như nhấp nháy, chỉ
độ phần mười một giây hắn đã nhả ra ở khe hở con sau gáy một tờ giấy in
bài thơ dài đáp từ. Lăng Quăng được chỉ định lên ngâm bài thơ đó. Tiếng
ngâm vừa dứt thì tiếng hoan hô lại ran như sấm, nhiều cô gái nhảy cẫng
lên.
Một bà mẹ quá xúc động chạy đến chỗ Ba Con Nhất đứng
dịu dàng hôn trán hắn. Một thanh niên gỉ tai Lăng Quăng van vỉ mượn bài
thơ đáp từ đó để về chép và học. Trong một tiệc rượu, người ta vừa ăn
vừa nắc nỏm khen từng chữ từng câu của bài thơ. Mấy cụ ông râu dài trầm
giọng láy đi láy lại những câu mà các cụ cho là lý thú nhất như:
…
Thời đại tươi vui đẹp nắng vàng Rập rờn cờ đỏ trống khua vang Bao tay
lao động xây tươi đẹp Phấn khởi nông trường, tiến tiến hăng.. Rồi các cụ
ho sù sụ làm cho các cụ bà mủm mỉm cười nửa tình tứ nửa thương hại.
Trong khi ấy Nghiêm Văn Túc thỉnh thoảng lại trang trọng gật gật cái
đầu, tỏ vẻ hài lòng và hả hê đảo mắt liếc phụ nữ… Lăng Quăng thì im như
cá chép, đau khổ ngồi thu nhỏ mình lại trong bàn tiệc, cảm thấy mình bé
bỏng quá, tồi tàn quá. Mọi khi trong các buổi hiếu hỉ, anh là cái
"đinh". Mọi người tha thiết nài ép anh ngâm thơ. Mọi vỗ tay đều dành
tặng cho những vần điệu du dương hay bốc lửa của anh. Mọi con mắt đều
đăm đắm rót nhìn vào anh. Mọi đôi môi đều kín đáo trao cười.
Than
ôi! Thời oanh liệt đó từ nay còn đâu nữa!!! Nhưng ai oán nhất cho Lăng
Quăng là cô Duyên xem chừng khác ý, suốt tiệc rượu cứ nhìn dán vào mặt
Ba Con Nhất, dáng điệu mê mệt, nhiều lần đánh rơi đũa, thìa, cốc hoặc
gắp nhầm thức ăn ở đĩa người ngồi cạnh. Lăng Quăng nổi ghen một cách
thực thà và choáng váng. III. Tâm hồn điện tử của Ba Con Nhất Hàng ngày…
hàng ngày vào hai buổi sáng chiều, những bài thơ rút từ sau gáy Ba Con
Nhất đều được Nghiêm Văn Túc cho ngâm trước máy phóng thanh. Hết ca tụng
"Máy gặt về", "Điện về", "Nước về" lại tả cảnh "Chuồng thỏ mùa xuân",
"Cánh đồng mùa hạ", "Hợp tác xã mùa thu". Bài nào cũng mở đầu bằng "Thời
đại tươi vui…" Đoạn giữa thế nào cũng có "Cờ đỏ trống khua tay lao
động..." Đoạn kết bao giờ cũng có mấy lời kêu gọi "Phấn khởi... tiến
hăng..." Nói đến nhiệm vụ thì sao cũng nhắc nhở "Bỏ ăn bỏ uống một ngày,
nhưng không bỏ được máy càng vinh quang". Yêu nhau thì phát triển mãi
cái tứ duy nhất là "Yêu nhau dù trọn một đời… Xin đừng đắm đuối mà rơi
lập trường". Tâm hồn điện tử của Ba Con Nhất cứ một điệu như vậy, nhạt
nhẽo truyền hơi sống vào thi ca, bao trùm mọi câu chuyện, mọi tâm tình,
mọi cảm nghĩ của cả nông trường… Mọi em bé chăn bò học đòi Ba Con Nhất
cũng ông ổng ngâm nga: "Bỏ ăn bỏ uống một ngày..." Một chiều chủ nhật,
Lăng Quăng đi chơi rừng với Duyên. Có bàn chuyện cưới xin thì bị Duyên
chỉnh luôn: "Xem ra đắm đuối lả lơi... Coi chừng kẻo lại đánh rơi lập
trường!..." làm cho Lăng Quăng thở dài sườn sượt. Thấm thoát tới hội
mùa. Nông trường CON ÉN thu hoạch tốt có tổ chức mít tinh ăn mừng thắng
lợi. Chỉ trong nháy mắt Ba Con Nhất đã sản xuất được "Bài ca vụ mùa
thắng lợi" ngàn rưởi câu. Nội dung vẫn giống các bài cùng loại này do Ba
Con Nhất sản xuất như "Ca làm cỏ thắng lợi", "Ca đi săn thắng lợi", "Ca
phát huy sáng kiến thắng lợi", nghĩa là lại vẫn: "Tươi vui… lúa vàng...
cờ đỏ hát ca vang... tay lao động... bỏ ăn bỏ ngủ quên sao vụ mùa...
phấn khởi tiến hăng… công nông trí kết đoàn v.v…" Nghe xong mọi người
lại vô tay một cách hợp thời trang.
Mấy cụ râu dài quen
lệ lại láy vài câu để các cụ bà mỉm cười. Lăng Quăng lại thấy bực bội
trong người, bật dậy như chiếc lò xo, đầu ngẩng rất cao, phát biểu: "Sáo
đến thế! Nhạt như nước ốc đến thế mà bà con cũng thích được à!…" Nghiêm
Văn Túc bèn nổi giận như Chúa thấy quỷ Sa Tăng đả kích vào con chiên
của mình, hội ý cấp tốc với một số cán bộ trung kiên để phê phán Lăng
Quăng. Một người nói: "Đồng chí Lăng Quăng nặng đầu óc địa vị… thấy thơ
của thi sĩ Ba Con Nhất được mọi người yêu thích thì sinh ra ghen tuông
bất mãn…" Một người phân tích: "Đồng chí Lăng Quăng nói xấu bạn… phê
bình thiếu xây dựng, kiêu căng không chịu học hỏi… như thế là tư tưởng
phá hoại". Nghiêm Văn Túc quên cả chắp tay lên ngực trân trọng như mọi
lần, vội vã lên diễn đàn vận động lý luận kết tội Lăng Quăng coi thường
sự thưởng thức văn nghệ của quần chúng và phạm vào chính sách đoàn kết
giữa người "máy" và người "thật". Túc đề ra ý kiến tổ chức một cuộc đọ
tài văn thơ giữa Lăng Quăng và Ba Con Nhất. Nhiều người giơ tay ủng hộ
Túc. Túc nắm chắc phần thất bại nhục nhã của Lăng Quăng và như thế là có
cớ để dập vùi anh. Cô Duyên lên diễn đàn xin có ý kiến. Lăng Quăng hồi
hộp đợi, tin tưởng ít nhất người yêu của mình cũng sẽ bênh mình. Nhưng
không! Bằng giọng cả quyết, cô nói: "Nếu đồng chí Lăng Quăng thua, tôi
kiên quyết sẽ cắt đường luyến ái… vì tôi không muốn lấy chồng tồi, không
tiến bộ…"
Lăng Quăng mỉm cười chua chát Anh ngẩng cao đầu
nhận đọ tài với tên người "giả" đang được mù quáng tôn sùng kia. Ngay
sáng hôm sau, toàn thể nông trường nghỉ buổi làm, tới câu lạc bộ chứng
kiến một cuộc thi tài văn nghệ "không tiền khoáng hậu". Nghiêm Văn Túc
được chỉ định làm trưởng ban giám khảo, ngồi giữa phòng, hai bàn tay
chắp lại đặt giữa ngực, rõ ra dáng nhân vật quan trọng. Bên tả là Ba Con
Nhất đứng, ngó bộ kênh kiệu. Bên hữu là Lăng Quăng ngồi thiểu não. Đầu
bài thi như sau: "Tả cảnh trời xuân…" Túc đánh kẻnh báo hiệu bắt đầu.
Phòng họp trở nên im lặng. Chỉ còn nghe thấy tiếng ruồi bay vo vo, tiếng
máy chạy sè sè và tiếng ngòi bút kêu soàn soạt. Khốn nạn Lăng Quăng cắn
bút mãi mới được chưa đầy dăm câu thơ mà Ba Con Nhất đã tuôn ngay một
bài thơ 3000 câu. Thế là cuộc thi chấm dứt.
Lăng Quăng
thua hẳn hoi. Mồ hôi anh vã ra, nét mặt răn rúm lại. Anh được chỉ định
ngâm hộ Ba Con Nhất. Giọng anh đau đớn xót xa (giọng của người thất bại
chua cay) khiến bà con lầm tưởng anh muốn làm nổi bật lên tâm hồn điện
tử thiết tha của Ba Con Nhất và người ta càng vỗ tay ầm ĩ. Bài thơ cũng
vẫn quanh đi quẩn lại những câu như:
… Rực rỡ vườn xuân, cúc nở vàng
Hoa đào tươi nở báo Xuân sang Dựng xây nhân loại, tay lao động No ấm từ
đây mãi vẻ vang Nhà máy khói vờn, đà thắng lợi Công nông trí thức thấy
vinh quang Xuân sang phấn khởi ta đều hứa Kiến thiết nông trường, tiến
tiến hăng!… hay
Quên ăn, quên ngủ, chớ quên đời Chớ quên đất nước,
mây trời mùa xuân… Vài cụ râu dài lại làm cái việc thường lệ là nhại lại
vài câu lý thú, không quên ho sù sụ để các cụ bà thương hại. Nghiêm Văn
Túc đủng đỉnh đứng dậy, ra lệnh bế mạc, rồi rời phòng thi, mắt không
quên liếc ngược đảo xuôi, chắc mẩm thế nào cái dáng điệu quan trọng của
mình cũng lọt vào đôi mắt xanh nào đấy… IIII. Ba điều đáng chết và ba
điều hèn Từ sau cái bữa hỏng thi, Lăng Quăng đã không được Duyên đoái
hoài đến nữa. Càng ngày cái vị trí của anh càng bị xuống. Nghiêm Văn Túc
lại quất những làn roi phê bình tàn bạo vào những sáng tác phẩm của
anh, gây thành dư luận rộng rãi khiến cho cả nông trường thành kiến với
thơ anh đến độ thơ anh làm ra ngâm lên chỉ độ vài khúc là người ta đã
nhao nhao kêu tồi, kêu đồi bại, kêu lãng mạn. Có người lại chụp lên dăm
cái mũ phong kiến tư sản, tiểu tư sản v.v… Một bữa, muốn đo lòng người,
anh đã là một việc gian dối là ký láo tên Ba Con Nhất xuống một bài thơ
mới của anh rồi đem ngâm. Nghe xong, lập tức Túc đứng ra lảm nhảm phân
tích làm cho cả nông trường nắc nỏm khen hay. Anh liền nói rõ sự thật là
bài ấy chính anh làm thì một số không tin, cho là anh khuếch khoác, một
số khác (trong đó có cả Duyên) thì lại nói: "Thảo nào, bọn mình nghe
xong cũng ngờ ngợ, cảm thấy bài thơ tồi quá…" Riêng Nghiêm Văn Túc thì
đao to búa lớn phê phán anh về cái tội lợi dụng tên tuổi của Ba Con Nhất
để được tiếng khen, xúc phạm đến uy tín của lớp người "máy". Lăng Quăng
bị chăng chói giữa cuộc sống đầy rẫy thành kiến, bị chung quanh không
hiểu mình, bỏ rơi và lạnh nhạt Mà tất cả chỉ tại cái "máy người". Nghiêm
Văn Túc và cái người "máy" Ba Con Nhất vô tư vô giác kia, sừng sững yêu
quái ở giữa cái nông trường tươi đẹp này.
Anh căm phẫn
cao độ. Một buổi chiều thoáng thấy bóng Duyên tiến về phía Câu lạc bộ,
anh liền theo sau. Duyên vào buồng đặt Ba Con Nhất, bàn tay còn đầy dầu
máy chứng tỏ cô ả vừa ở cơ xưởng về là vào thẳng đây. Anh đứng nấp sau
rem cửa nhìn vào, bỗng thấy Duyên ngoan ngoãn quỳ xuống trước Ba Con
Nhất thầm thì xin một bản tình ca. Duyên vặn nút chữ. Tiếng máy sè sè
chừng một tích tắc. Ba Con Nhất nhả ra sau gáy một cuộn giấy. Duyên giở
ra ngâm nga khe khẽ:
… Nghe em! Đừng quên nhiệm vụ Chớ mất lập trường
Trọn đời anh sẽ yêu em v.v… Ngâm xong, Duyên áp bài thơ tình đó vào
ngực và ngước mắt đắm đuối nhìn vào đôi mắt nẩy lửa của Ba Con Nhất.
Lăng Quăng thấy sôi sục trong tim. Ý nghĩ rùng rợn nẩy ra. Nhất định
phải cho vài nhát dao. Anh thò tay vào túi lấy ra con dao nhíp, mở cả
hai lưỡi loang loáng sáng… và anh tiến vào. Duyên giật mình quay lại,
hơi mỉm cười làm anh bối rối. Để lấy can đảm, anh bèn dõng dạc tuyên án:
“Cô có 3 điều đáng tội chết. Điều thứ nhất là cô cám dỗ máy làm tổn
thương đến đạo đức của máy. Điều thứ hai là cô ăn ở bạc tình vô chung vô
thuỷ, ấy là tội phản bội. Điều thứ ba là cô giết chết một thiên tài là
tôi, phương hại đến cái vốn quý nhất của xã hội là con người.” Duyên
bình tĩnh đáp lại: “Tôi chết không đáng tiếc, chỉ tiếc là chết bởi tay
người hèn. Anh có 3 điều hèn không đáng sống. Điều hèn thứ nhất là anh
mang tiếng làm người mà thi văn thơ phải chịu thua máy, điều hèn thứ hai
là anh đã ăn cắp cái tên của máy để được tiếng khen, còn điều hèn thứ
ba là anh định dùng dao hại người tay không, mà người đó lại là người
đàn bà con gái…”
Lăng Quăng ôm mặt khóc rưng rức và bỏ ra về.
Án mạng không xảy ra, chỉ có lòng anh rớm máu đau thương. (Thực sự
Duyên vẫn yêu anh nhưng vẫn phải làm thế nào để giáo dục người yêu.) Mấy
hôm sau Lăng Quăng gặp ông chủ tịch, xin rút lui nghề làm thơ, xin được
chuyển công tác khác. Nông trường đang thiếu chân quét chuồng ngựa. Ông
chủ tịch đã sắp xếp anh vào chân đó, đồng thời cố an ủi khuyến khích
anh. Anh làm việc cần cù nhưng đêm đêm vẫn thức khuya tiếp tục làm thơ,
những vần thơ ngậm ngùi nói lên:
… Những xót xa, những nước mắt khôn
nguôi Những tiếng hát muôn chim, Những phút trái tim cười Tôi chắp nỗi
buồn vui mãi mãi (Dù em chẳng nghe tôi) Tôi vẫn ca Lanh lảnh chuyện đời
Lòng hằng tin: Người sẽ hiểu lòng tôi. V. Đoạn kết rất công thức nhưng
cần thiết Số là… dù sao đi nữa thì máy vẫn chỉ là máy. Khả năng của máy
chỉ có hạn. Tâm hồn điện tử của Ba Con Nhất dù được Nghiêm Văn Túc nâng
niu đến mấy đi nữa cũng trở nên tầm thường khô cạn và nhạt nhẽo. Nông
trường CON ÉN đã bắt đầu ngấy những vần điệu nhai đi nhai lại mãi. Những
bài về thời sự chính sách của thi sĩ máy từ bài thứ vài nghìn trở đi
được phóng thanh sáng sáng chiều chiều đã làm các bà già buồn ngủ, các
ông già bực dọc bứt tóc vặt râu, các con trai bịt lỗ tai, các cô gái
thanh xuân thì nguyền rủa: “Khổ lắm biết rồi, cũ lắm rồi”. Còn cụ Hay
Rượu thì chếch choáng vài ba tợp rượu xông lại trước mặt Ba Con Nhất mà
cà khịa. Nghiêm Văn Túc thì giở một quyển luật về “chống đánh nhau” ra
can. Cuối cùng cả nông trường kiến nghị lên ông chủ tịch đòi quẳng Ba
Con Nhất vào kho chứa đồ đồng nát. Túc cố kể thành tích của Ba Con Nhất
hòng cứu vãn quyền uy của máy. Cả nông trường phản đối Túc quyết liệt,
lại còn đòi quẳng cả cái tủ sách vở chứa trong bụng Túc đi nhân thể. Túc
lấy làm sợ hãi, vội vàng chắp hai tay lên ngực, rồi khóc, trang trọng y
hệt bậc chân tu thấy mọi gười không hiểu nổi chánh đạo của mình.
Sau
đó Nguyễn Linh Quang được trả về chức vụ thi sĩ của của mình. Nông
trường giao cho cô Duyên xuống chuồng ngựa đón. Cuộc tái hợp diễn ra bao
nhiêu mừng mừng tủi tủi. Nông trường trở lại đời sống thực của con
người. Bà con lại học thuộc thơ Lăng Quăng, những bài thơ hiện thực xã
hội chủ nghĩa, rất “người”, ca tụng tình yêu lao động, sáng tạo yêu đất
nước và yêu cuộc sống vĩ đại muôn màu muôn vẻ Tin sau cùng: Những sự
việc xảy ra ở nông trường CON ÉN đã tương tự xảy ra ở một số nơi khác
(từng sử dụng sai lầm người “máy”) và cùng đi đến một kết luận công thức
nhưng rất cần thiết như đã kể lại ở trên đây. 1956 (Trích báo Nhân văn
số 5 xuất bản ngày 20-11-1
No comments:
Post a Comment